“The Solar War” (John French)

The Solar War

Phát hành: Black Library

Tác giả: John French

Người dịch: Ngô Lê Ngọc Thành

the-solar-war-john-french

Nội dung: Sau nhiều năm chiến tranh tàn khốc, Horus và lực lượng của hắn đã đến Terra. Nhưng trước khi có thể đặt chân lên Throneworld, trước tiên chúng phải phá vỡ hệ thống phòng thủ của Hệ mặt trời. Các hạm đội hùng mạnh và hệ thống phòng thủ khôn ngoan cản đường chúng – nhưng liệu có điều gì có thể hy vọng ngăn chặn được bước tiến của quân đoàn những Kẻ phản bội? Việt hóa bởi Ngô Lê Ngọc Thành.

LỜI TỰA

Đây là thời khắc huyền thoại.

Cả thiên hà đang chìm trong biển lửa. Viễn cảnh huy hoàng Hoàng đế tạo dựng dành cho nhân loại đã bị hủy hoại. Người con trai được Ngài ưu ái nhất – Horus, đã quay lưng với ánh sáng của Ngài và chìm đắm trong Hỗn mang (Chaos).

Quân đội của Horus, những Space Marine với sức mạnh không thể nghi ngờ, hăng hái lao vào cuộc nội chiến tàn khốc. Những chiến binh hùng mạnh từng chiến đấu bên nhau như anh em để bảo vệ thiên hà và đưa nhân loại trở về với ánh sáng của Hoàng đế. Bây giờ đã bị chia rẽ.

Một số vẫn trung thành với Hoàng đế, trong khi những người khác đứng về phía Warmaster. Nổi bật nhất trong số họ – những Primarch – thủ lĩnh của các Quân đoàn hàng nghìn chiến binh. Những tạo vật siêu phàm, vĩ đại, vượt trên loài người, họ là thành tựu đỉnh cao của Hoàng đế từ công nghệ khoa học di truyền. Họ chém giét lẫn nhau trong trận chiến mà không bên nào chắc chắn về chiến thắng.

Thế giới đang bùng cháy. Tại Isstvan V, Horus đã giáng một đòn hiểm độc tiêu diệt ba Quân đoàn trung thành. Chiến tranh đã bắt đầu, cuộc xung đột sẽ nhấn chìm tất cả nhân loại trong biển lửa. Sự bội bạc và phản bội thế chỗ cho lòng danh dự và các phẩm chất cao quý. Các sát thủ ẩn nấp trong mọi bóng tối, các đội quân đang tập hợp. Tất cả phải lựa chọn chiến đấu cho ai hoặc cái chết.

Hạm đội của Horus đang duyệt binh, Terra là đích đến cho cơn thịnh nộ của hắn. Trên ngai vàng, Hoàng đế chờ đợi đứa con trai ngỗ ngược quay về. Nhưng kẻ thù thực sự của Ngài là Chaos – thế lực nguyên thủy luôn tìm cách nô dịch nhân loại để phục vụ những ý đồ điên rồ thất thường của nó.

Tiếng la hét của những người vô tội, tiếng kêu gào của công lý vang lên trong tiếng cười độc ác của các Dark Gods. Đau khổ và chết chóc đang chờ đợi tất cả nếu Hoàng đế thất bại và loài người thua cuộc trong trận chiến.

Kết thúc là ở đây. Bầu trời tối dần, những đội quân khổng lồ tập hợp lại. Vì số phận của Throneworld, số phận của chính nhân loại …

Cuộc bao vây Terra đã bắt đầu.

LỰC LƯỢNG THAM GIA

THE EMPEROR – HOÀNG ĐẾ, Chủ nhân của loài người, Chúa tể đầu tiên và cuối cùng của Imperium;

HORUS, Warmaster, Primarch Quân đoàn XVI, Vật chủ uy quyền của Chaos.

The Primarchs

Perturabo,‘Lord of Iron’ – ‘Chúa tể sắt’, Primarch Quân đoàn IV;

Jaghatai Khan,‘The Warhawk’ – ‘Ưng chiến’, Primarch Quân đoàn V;

Rogal Dorn, ‘Praetorian of Terra’ – ‘Cận vệ của Terra’, Primarch Quân đoàn VII;

Sanguinius, ‘Archangel of Baal’ – ‘Tổng lãnh thiên thần của Baal”, Primarch Quân đoàn IX;

Quân đoàn IV’Iron Warriors’ – ‘Những chiến binh sắt’**

Forrix, ‘The Breaker’ – ‘Người bẻ gãy’ , Đại úy 1, Triarch;

Vull Bronn, ‘The Stonewrought’ – ‘Người điêu khắc đá’, Tiểu đoàn 45 (quy mô lớn);

Quân đoàn V ‘White Scars’ – ‘Vết sẹo trắng’

Jubal Khan, ‘Lord of the Summer Lightning’ – ‘Chúa tể của tia chớp mùa hè’, ‘Master of the Hunt’ – ‘Bậc thầy của cuộc săn’;

Changshi, ‘BladeWard of Jubal Khan’ – ‘Người giữ kiếm cho Jubal Khan’.

Quân đoàn VII ‘Imperial Fists’ – ‘Cú đấm của hoàng đế’

Sigismund, ‘Lord Castellan of the First Sphere’ – ‘Lãnh chúa hạm đội First Sphere’, ‘First Captain’ – Đại úy 1, ‘Marshal of the Templars’ – ‘Nguyên soái của Templars’;

Halbract, ‘Lord Castellan of the Second Sphere’ – ‘Lãnh chúa hạm đội Second Sphere’ -, ‘Fleet Master’ – ‘Bậc thầy chỉ huy hạm đội’;

Effried, ‘Lord Castellan of the Third Sphere’ – ‘Lãnh chúa hạm đội Third Sphere’, ‘Seneschal’ – ‘Quản gia’;

Camba Diaz, ‘Lord Castellan of the Fourth Sphere’ – ‘Lãnh chúa hạm đội Fourth Sphere’, ‘Siege Master’ – ‘Bậc thầy chỉ huy bao vây’.

Fafnir Rann, ‘Lord Seneschal’ –’Tổng quản’, ‘Captain of the First Assault Cadre’ – ‘Đại úy Đội đột kích 1’;

Boreas, ‘First Lieutenant of the Templars’ –’Thiếu úy 1 của Templar’, ‘First Company’ – Đại đội 1;

Massak, ‘Librarian’ – ‘Thủ thư’;

Archamus,‘Master of the Huscarls’ – ‘Bậc thầy của loài Huscar’;

Quân đoàn XVI ‘Son of Horus’ – ‘Những đứa con của Horus’

Ezekyle Abaddon, ‘First Captain’ – ‘Đại úy 1’;

Horus Aximand, ‘Little Horus’ – ‘Tiểu Horus’, ‘Captain’ – ‘Đại úy’, Đại đội 5;

Falkus Kibre, ‘Widowmaker’ – ‘Kẻ tạo ra góa phụ’, ‘Captain’ – ‘Đại úy’, ‘Justaerin Cohort’ – ‘Đội Jestaerin;.

Saduran, ‘Warrior of the 201st Assault Battalion’ – ‘Chiến binh Tiểu đoàn đột kích 201′;

Ikrek, ‘Warrior of the 201st Assault Battalion’ – Chiến binh của Tiểu đoàn đột kích 201;

Thonas, đội Justaerin;

Gedephron, đội Justaerin;

Tybar, đội Justaerin;

Ralkor, đội Justaerin;

Sycar, đội Justaerin;

Urskar, đội Justaerin.

**Justaerin **là một trong hai lực lượng đặc biệt trong Đại đội 1 ưu tú của Quân đoàn Luna Wolves (sau này là Quân đoàn Sons of Horus).

Lãnh đạo bởi Ezekyle Abaddon – Đại úy 1 của Quân đoàn, Justaerin là niềm tự hào của Quân đoàn XVI với bộ giáp đen đặc trưng, sự chuyên nghiệp trong các nhiệm vụ khó khăn, thực hiện các cuộc đột kích và tấn công chiến lược trong tình trạng ngặt nghèo khủng khiếp. Với nhiệm vụ là mũi nhọn của lưỡi giáo cho Quân đoàn XVI, họ được cử đến nơi đang giao tranh quyết liệt nhất, nhắm vào trung tâm hoặc tiêu diệt đầu não chỉ huy của quân địch.

Lực lượng này cũng là những người ủng hộ đầu tiên cho việc sử dụng Tactical Dreadnought Armour, rất nhiều Justaerin mặc giáp Terminator trong trận chiến và dựa vào khả năng phục hồi của bộ giáp để đập tan mọi sự kháng cự sau đó tiêu diệt kẻ địch ở cự ly gần.

Quân đoàn XV ‘Thousand Sons’ – “Nghìn người con trai”

Ahriman, ‘Chief Librarian’ – ‘Thủ thư trưởng’;

Ignis, ‘Master of the Order of Ruin’ – “Bậc thầy của Hội Order of Ruin’;

Menkaura, ‘Blind Prophet of the Conrvidae’ –’Nhà tiên tri mù của Corvidae’.

Quân đoàn XVII ‘Word Bearers’ – ‘Người truyền giáo’

Zardu Layak, ‘The Crimson Apostle’ – ‘Tông đồ đỏ thẫm’, ‘Master of the Unspeaking’ – ‘Bậc thầy của sự lặng im’;

Kulnar, ‘Slave of the Anakatis Blade’ – ‘Nô lệ của Hội Anakatis Blade’;

Hebek, ‘Slave of the Anakatis Blade’ – ‘Nô lệ của Hội Anakatis Blade’;

The Apostle – ‘Tông đồ’;

Người được Malcador chọn

Loken, ‘Knight Errant’ – ‘Hiệp sĩ Errant’.

The Mechanicum – Hội Mechanicum

Kazzim-Aleph-1, ‘Magos-Emissary’ – ‘Sử giả của Magos’;

Chi-32-Bet, Enginseer.

The Dark Mechanicum – Hội Dark Mechanicum

Sota-Nul, ‘Emissary of Kelbor-Hal’ – ‘Sứ giả của Kelbor-Hal’.

The Neverborn

Samus , ‘The End and the Death’ – ‘Sự kết thúc và Cái chết’.

Imperial Army – Quân đội Hoàng gia

Niora Su-Kassen, ‘Solar Command Staff, former Admiral of the Jovian Fleets’ – ‘Tham mưu trưởng Bộ chỉ huy Hệ Mặt trời, cựu Đô đốc Hạm đội Jovian’.

Imperial Personae – Hội đồng Hoàng Gia

Malcador, ‘Regent of the Imperium’ –’Nhiếp chính của Imperium’;

Armina Fel, ‘Senior Astropath’ – ‘Astropath cao cấp’;

Heliosa-78, ‘Cult Matriarch of the Selenar’ – ‘Giáo phái nữ tông đồ của Selenar’;

Andromeda-17, ‘Personified-scion of the Selenar’ – ‘Hiện thân cho dòng dõi Selenar’;

Mersadie Oliton, ‘Prisoner of the Unnamed Fortress, former Remembrancer’ – ‘Tù nhân của Pháo đài Vô danh, cựu người tưởng nhớ’;

Euphrati Keeler, ‘The Saint, former Remembrancer’ –’Vị thánh, cựu người tưởng nhớ’;

Nilus Yeshar, ‘Navigator’ – ‘Hoa tiêu’;

Cadmus Vek , Celestial Mining Magnate;

Zadia Koln, ‘Sub-mistress of the system freighter Antius’ – ‘Hỗ trợ hệ thống (nữ) của tàu vận tải hệ Antius’;

Aksinya, Lifeward to Cadmus Vek.

‘Đó là quê nhà yêu dấu của tôi: mà mỗi khi đi xa,

Tôi luôn muốn trở về thêm lần nữa,

Đúng khoảng khắc cần thiết, nhưng không phải để đổi trao thời gian. ‘

THE WARP

THE WARP

TỪ ĐÊM HẮN TRỞ VỀ

‘Cha…’

Hắn đang đợi. Hắn đã luôn chờ đợi. Nơi đây không có thời gian, không có gì thực sự, trừ khi các nguồn năng lượng bên trong con thủy triều của nó mong muốn điều gì đó thành sự thật. Tại đây, sự thật duy nhất là sự vĩnh cửu.

‘Cha…’

Từ từ, với sự mệt mỏi và miễn cưỡng, Ngài định hình bản thân từ ý tưởng của chính mình, bắt đầu từ đôi mắt, miệng, chân tay và cả cái ghế bên dưới Ngài. Xa xa, có một chiếc ghế khác, một sợi dây suy nghĩ và ý chí ràng buộc Ngài trở lại với thế giới thực tế – một nơi tạo thành bằng kim loại, đá và thời gian.

‘Cha…’

Ngài mở mắt.

Bóng tối nằm trước mặt Ngài, kéo dài qua mọi chiều không gian. Chỉ có bóng tối và một mình Ngài. Trong khoảnh khắc đó, Ngài cảm nhận được tiếng vọng của mọi người đàn ông hay đàn bà đã từng thức dậy bên cạnh một ngọn lửa bập bùng chỉ để thấy màn đêm đang dần đến gần khi ngọn lửa tắt dần.

Bóng tối trở thành một tấm gương đen. Ngài nhìn vào hình ảnh phản chiếu của chính mình: một người đàn ông trên ghế đá, làn da đen sạm già nua bám vào hõm má, từng vệt sắt và tuyết bám trên râu. Vai và tay chân phủ dưới chiếc áo choàng mỏng đơn giản màu đen. Bụi đất bám đầy lòng bàn chân trần của Ngài. Đôi mắt Ngài trong suốt, không có lòng tốt cũng như sự thương hại trong chúng.

Chiếc ghế và người đàn ông ngồi trên một bệ đá hẹp. Phía sau Ngài là một bức tường rực lửa đang cao dần và xa xa, không gian rực sáng và bùng lên như bề mặt của một ngôi sao.

Hình ảnh trong gương chợt thay đổi. Trong một khoảnh khắc, một hình bóng tạo nên bằng bằng sắt và những lưỡi kiếm với đôi mắt như ánh lò than cháy đỏ đang nhìn lại Ngài từ một ngai vàng. Sau đó, nó biến mất, hình ảnh phản chiếu lúc này là một vệt mờ của những hình ảnh khác nhau rơi xuống nối tiếp chồng lên nhau: một chiến binh giáp vàng rút thanh kiếm khỏi vỏ, đứng trước cổng một pháo đài cao chót vót; một hình người trước miệng hang núi; một cậu bé cầm cây gậy và sự sợ hãi trong mắt; một nữ hoàng với ngọn giáo trên vách đá; một con đại bàng mười cánh bay vào bầu trời đầy sấm sét – liên tục, những hình ảnh trộn vào, đè lên nhau, như mặt những quân bài tung lên không trung.

‘Có sự thật nào tồn tại trong Người không?’ giọng nói phát ra từ bóng tối hỏi.

Những hình ảnh biến mất và bóng tối trở lại bao trùm trước mặt Ngài, rót xuống vực sâu bên dưới giống như một dòng cát obsidian.

‘Đến tận gốc rễ những lời dối trá của Người, liệu có sự thật nào tồn tại không, thưa Cha?’

Bóng tối trở thành một khu rừng, những thân cây tối tăm vươn tới bầu trời không thể chạm tới, rễ cây bò ra và xuống vực sâu bên dưới. Ngài bây giờ đang ngồi trên mặt đất phủ đầy tuyết, trước mặt là một ngọn lửa bùng cháy. Một bóng đen di chuyển ra khỏi bóng tối giữa những cái cây. Nó to lớn, bộ lông xù và đôi mắt bạc. Bóng của sinh vật đó kéo dài khi nó tiến về phía trước. Và nó dừng lại ở rìa ánh sáng.

Con sói cất tiếng nói: ‘Người tự nhận mình là đàn ông, nhưng đó chỉ là lời nói dối lộ liễu với bất kỳ sinh vật nào có thể nhìn thấy Người ở đây. Người phủ nhận mong ước trở thành một vị thần, nhưng Người đã dựng lên một đế chế để ca ngợi bản thân. Người tự gọi mình là Chúa tể của Nhân loại và đó có lẽ là sự thật duy nhất Người từng nói – để chứng tỏ mong muốn của Người là biến con mình thành nô lệ.’

Con sói nghiêng đầu và trong một giây nó không còn là sói, cái bóng phình to ra, lấp đầy bởi những tia chớp, hốc mắt trống rỗng cháy đỏ như than hồng.

‘Nhưng đứa con trai này …’ con sói gầm gừ, cơ bắp cuộn lại dưới lớp lông đen, môi bong ra sau hàm răng, ‘… đứa con trai này đã trở lại cái nôi dối trá của ông.’

Con sói nhảy lên. Khu rừng trong nháy mắt chuyển sang một mảng màu đen kịt và nhức nhối. Bóng của một người đàn ông vượt qua bóng tối với đôi tay biến thành móng vuốt. Ngọn lửa cháy sáng, bùng lên trở thành một bức tường rực lửa và những móng vuốt rực sáng cào tới trước. Bóng tối bị cháy thành tro và tàn lửa. Con sói giật mình, hú lên. Sấm sét đánh vào phía bóng tối của khu rừng. Con sói chạy dọc ranh giới của ngọn lửa. Phía sau nó, những đôi mắt khác tỏa sáng trong bóng tối đậm đặc hơn giữa những tán cây, sáng và lạnh như ánh sáng của những vì sao tàn nhẫn.

Người đàn ông quay đầu lại. Anh ấy không nhìn vào con sói, mà nhìn vào bóng tối phía sau.

Ngài nói: ‘Ta phủ nhận ngươi’, và ở nơi này dù lời nói của Ngài uy quyền và có sức mạnh hơn cả thực tại, nhưng cũng không hơn gì một giấc mơ, lời nói của Ngài làm rung chuyển bóng tối như sấm sét.

‘Cha không định nói chuyện với con sao? Kể cả bây giờ, khi đế chế dối trá của Cha sắp chấm dứt, Cha vẫn sẽ không nói cho con biết sự thật? ‘

Người đàn ông nói: ‘Ngươi chỉ là cái bóng, không hơn không kém. Ngươi không có gì để cho đi. Ngươi không là gì cả. Ngươi đến đây với một đứa trẻ bị điều khiển như con rối, nhưng ngươi không nói cho nó biết tại sao ngươi cần nó. Ngươi cần nó bởi ngươi không có gì trong tay, và đó là sự thật, không có thanh kiếm nào không phải là giả dối, không có thứ sức mạnh nào không phải là giả dối. Ngươi cần nó vì ngươi quá yếu. Ngươi cần nó. Ngươi sợ nó. Và nó sẽ thất bại. ‘

Tiếng cười lấp đầy màn đêm, từng nhịp như tiếng đập cánh, réo rắt như tiếng tiếng người hấp hối đang cố thở, trong những vòng lặp cuộn vào nhau. Bóng tối dâng cao kéo dài về phía trước, cuộn lại, siết chặt. Người đàn ông trên ghế đá lưỡng lự. Ngọn lửa uốn cong và thu nhỏ lại. Hình ảnh của người đàn ông cũng bập bùng như ánh lửa và trong giây lát, Ngài trông giống như một xác chết ngồi trên ngai vàng, xương bàn tay nắm chặt cánh tay trong đau đớn.

Ngài nhắm mắt lại.

Hình ảnh bắt đầu mờ đi, như thể đang nhìn xuyên qua một cơn gió bụi. Tiếng cười càng lúc càng to dần.

Nó luôn diễn ra theo cách này: lặp đi lặp lại, dưới vô số hình thức và ẩn dụ, cái chết và bóng tối mang vô số lớp mặt nạ. Vòng lặp cứ tiếp diễn, lặp lại với sức mạnh ngày càng lớn thêm giống như cơn đói khái của đám đầy tớ bóng tối.

Giết chóc.

Máu và những cái kết.

Sự hy sinh và cái chết.

‘Ta đã trở về’ giọng nói của con sói lại vang lên trong bóng tối.

‘Ta phủ nhận ngươi’ người đàn ông nói, những hình ảnh mờ dần như tiếng vọng dư âm của giấc mơ nhưng tiếng cười vẫn không dứt.

CHƯƠNG 1

MỘT

GIỜ 0

Hồi tưởng của những con sói

Cuộc tấn công dữ dội

Terra

Ngày đầu tiên của kỷ Primus, tiếng còi báo động vang lên khắp Terra.

Trên vô số thế giới bị chinh phục và cai trị bởi Đế chế loài người (Imperium of Man, gọi tắt là Đế chế), họ bàn về cách phân định thời gian trong năm, về các chia thời gian thành hàng nghìn mảnh nhỏ. Lần chia thứ nhất, lần chia thứ hai, thứ ba, cứ thể tiếp diễn, không có gì thay đổi cũng như không có gì đặc sắc, cho đến khi số lượng của phép chia đạt đến một nghìn và một năm đã nhanh chóng trôi qua. Trên những thế giới của những đêm dài vô tận hoặc những ngày mù mịt, một năm cũng được tính giống như vậy. Trong một đế chế trải dài cả một thiên hà, bất kỳ cách tính nào khác đều trở nên vô nghĩa.

Năm 14 của thiên niên kỷ thứ 31 (0000014.M31) là thời điểm mà các bản ghi chép còn sót lại đánh dấu khoảng khắc đầu tiên của ngày đó, được đóng dấu và chỉnh sửa để chính xác theo dòng thời gian, chuẩn hóa và loại bỏ bất kỳ yếu tố vô nghĩa nào khác. Nhưng tại đây, trên thế giới mà ngày, đêm và mỗi mùa đã cho nhân loại khái niệm đầu tiên về thời gian, phép đếm cũ vẫn mang ý nghĩa gì đó và khoảnh khắc một năm cũ chết đi cùng lúc một năm mới sinh ra được gọi bằng nhiều cái tên: Ngày lễ của Hai khuôn mặt, Ngày của Ánh sáng mới, Sự đổi mới và điều này vẫn đang tiếp diễn. Nhưng cổ xưa hơn cả những ký ức là thời điểm đầu tiên của kỷ Primus, ngày đầu tiên trong chuỗi ba trăm sáu mươi lăm ngày tiếp đó, ngày của hy vọng và những khởi đầu mới.

Bước ngoặt của năm đó khởi đầu trong khung cảnh tuyết rơi trên chiến trường phía bắc của Hoàng cung, nơi ba vị anh em á thần cùng ngắm bầu trời đêm trên cao. Nó bắt đầu với ánh sáng bình minh và cái lạnh băng giá lọt vào một căn phòng trên đỉnh tháp và khuấy động những quân bài sơn thủ công đang được chia bởi một người đàn ông lớn tuổi hơn bất kỳ người nào từng được biết đến. Nó bắt đầu bằng những tiếng còi báo động vang lên, lúc đầu, ở trên cao trên các ngọn tháp của Cung điện, trước khi tiếng kêu của những người khác vang lên, lặp đi lặp lại trên khắp khối cầu đang xoay. Âm thanh vang vọng qua các cổng không gian có kích thước như một ngọn núi và lạo xạo phát từ những chiếc kèn vox ở tầng sâu của Hives Atlantean.

Tiếng còi tiếp tục vang lên làm ngưng bàn tay những con người đang ăn và làm việc, họ nhìn lên. Họ nhìn lên từ trong các hang động dưới lòng đất và các hầm chứa của Hives, dưới làn khói mù mịt. Với những người có thể nhìn thấy bầu trời, một số ít nghĩ rằng họ đang thấy những ngôi sao mới được tạo ra trên cao, bị ghim chặt bằng những cây đinh ánh sáng: viễn cảnh của lửa, tro tàn và một thời đại mất mát đang đến. Cùng với tiếng còi báo, nỗi sợ hãi lan rộng đến mức cảm nhận được dù không thể gọi tên.

‘Hắn ở đây’, họ nói.

Tàu chở tù nhân Aeacus , quỹ đạo cao sao Thiên Vương

“Ta hiểu rằng ngươi có một câu chuyện muốn kể …” cô ấy nói. Dưới ánh trăng, con sói đứng trước mặt cô, bộ lông trên lưng màu bạc. ‘Một câu chuyện, một điều đặc biệt, rất thú vị. Ta muốn nó được ghi nhớ, cho hậu thế. ‘

Con sói quay lại, nhe răng nở một nụ cười đau khổ.

‘Câu chuyện gì?’

‘Horus sẽ giết Hoàng đế.’

Mersadie Oliton tỉnh dậy khỏi giấc mơ với ký ức và mồ hôi lấm tấm trên khuôn mặt. Cô thở phào, kéo tấm chăn trùm trên sàn lên người khỏi nơi nó bị rơi xuống. Không khí mát lạnh tràn ngập trong phòng giam, phảng phất mùi không khí đã bị bốc hơi quá nhiều. Cô chớp mắt trong một giây. Có gì đó rất lạ. Cô đưa tay ra chạm vào bức tường kim loại. Hơi ẩm bám vào đinh tán, đóng vảy, rỉ sét. Tiếng động cơ của con tàu đã biến mất. Dù ở đâu, họ đang đứng yên trong khoảng không.

Cô thả tay xuống và thở ra. Những vết rách của giấc mơ ký ức vẫn còn đeo bám trên mi mắt cô. Cô tập trung, cố gắng kéo lại những sợi tơ của giấc mơ ngay cả khi chúng chìm vào bóng tối.

‘Mình phải nhớ lại …’ cô ấy nói với chính mình.

‘Tù nhân đứng dậy và quay mặt vào tường.’ Giọng nói bùng lên từ chiếc loa đặt phía trên cửa phòng giam.

Cô đứng lên theo bản năng. Cô mặc một bộ áo liền quần màu xám, sờn và bạc màu. Cô chống tay vào tường, các ngón tay xoè ra. Khóa cửa mở ra bằng một tiếng cạch và tiếng bước chân vang lên trên sàn nhà. Lính gác ở đây đều giống nhau: áo khoác đỏ thẫm, mặt nạ bạc, giọng nói mang tính con người bị biến dạng qua tiếng vox. Tất cả cai ngục đều giống nhau, bất biến như tiếng tích tắc của một chiếc đồng hồ không bao giờ dừng lại.

Một khoảng không gian nhỏ hẹp, những cánh cửa bị khóa, những câu hỏi và sự nghi ngờ – đó là thế giới của cô trong bảy năm kể từ khi cô quay lại Hệ Mặt trời (Solar System). Đó là giá cho những gì cô đã thấy, cho những gì cô phải ghi nhớ. Cô ấy từng là một người tưởng nhớ, một trong số hàng nghìn nghệ sĩ, nhà văn và học giả được cử đến để chứng kiến cuộc Đại Thập tự chinh (Great Crusade) và cái cách nó mang lại ánh sáng của lý trí để thống nhất toàn nhân loại. Đó là mục đích của cô: nhìn thấy và ghi nhớ. Cũng giống như rất nhiều mục đích rõ ràng và tương lai tươi sáng đã từng được vẽ ra, nó đã không diễn ra theo cách đó.

Cô nghe thấy tiếng bước chân dừng lại sau lưng mình, và biết lính gác sẽ đặt một bát nước và một bộ áo liền quần mới trên sàn.

‘Chúng ta đang ở đâu?’ cô nói, sau đó lo lắng khi nghe câu hỏi phát ra từ miệng của cô trước khi cô có thể dừng nó lại.

Im lặng.

Cô chờ dợi. Sẽ không có một hình phạt nào đối với việc cô ấy vừa làm, không bị đánh đập, không bị cắt bớt thức ăn hoặc sỉ nhục – đó không phải là cách mà nhà tù này hoạt động. Hình phạt là sự im lặng. Cô không nghi ngờ gì rằng các phương pháp khác, mạnh bạo hơn đã được sử dụng trên các tù nhân khác – cô đã nghe thấy tiếng hét. Nhưng đối với cô chỉ có sự im lặng. Bảy năm im lặng. Dù sao thì họ cũng không cần hỏi cô ấy điều gì. Họ đã lấy vùng lõi lưu trữ ký ức ra khỏi hộp sọ của cô và những điều được ghi lại trong đó sẽ cho họ biết mọi thứ họ muốn và hơn thế nữa.

‘Chúng ta vẫn đang trong không gian, đúng không’ cô nói, mặt vẫn quay vào tường. ‘Tiếng động cơ đã dừng lại, anh thấy đấy. Không thể không nhận ra điều đó nó anh đã từng ở trên những chiếc tàu thế này… Tôi đã từng có thời gian ở trên một chiếc tàu chiến. Anh sẽ không bao giờ quên cảm giác đó. ‘ Cô dừng lại, mong đợi sự phản hồi từ lính gác, dù đó chỉ là tiếng bước chân lùi lại và tiếng đóng cửa.

Lại im lặng.

Điều đó thật kỳ lạ. Cô đã thử nói chuyện với lính gác trong những năm đầu, và phản ứng của họ là bỏ mặc cô mà không trả lời. Sau một thời gian, cảm giác đó còn tệ hơn cả khi họ giáng một roi vào lưng cô. Mặc dù vậy, họ chưa bao giờ đánh cô ấy, hoặc thậm chí chạm vào cô. Ngay cả khi họ mở hộp sọ của cô ấy để lấy các lõi trí nhớ ra, họ đã dùng thuốc an thần cho cô, như thể điều đó khiến cho hành động bạo lực diễn ra sau đó trở nên dễ chấp nhận hơn.

Cô cho rằng những sự thương xót nhỏ như vậy liên quan đến Qruze hoặc Loken. Những chiến binh của Quân đoàn Luna Wolves trước đây đã dõi theo cô một cách nhiều nhất có thể. Nhưng điều đó vẫn khiến cô trở thành tù nhân của một trong những nhà tù vĩ đại và tăm tối nhất Imperium. Loken đã nói rằng anh sẽ trả tự do cho cô, nhưng cô đã từ chối. Ngay cả khi điều đó khiến cô đau đớn, cô vẫn hiểu tại sao mình phải tiếp tục bị nhốt. Làm thế nào mà điều này không xảy đến với cô? Sau tất cả, cô vẫn chưa nhận ra bộ mặt thật của kẻ thù sao? Bốn năm sống trên Vengeful Spirit giữa các Sons of Horus, dưới cái bóng của cha họ, người giờ khiến cả thiên hà sụp đổ trong một cuộc nội chiến. Ngoài nhà tù này, còn có thể có phần thưởng nào khác dành cho cô, dành cho việc nhớ lại những ngày đó? Cả dải ngân hà bỗng chốc thu nhỏ lại thành những bức tường quét vôi im lặng, chỉ còn lại những giấc mơ và ký ức nói chuyện với cô hàng đêm.

Cô đã bắt đầu mơ về những ký ức sau vài tháng, mơ về ngôi nhà của mình trên Terra, về ánh sáng mặt trời ló dạng qua rìa của đĩa quỹ đạo Arcus, mẹ cô cười và gọi cô khi cô chạy qua những khu vườn thủy sinh. Và cô ấy đã mơ về khoảng thời gian của mình ở giữa những Luna Wolves và Son of Horus, những người đã chết từ lâu. Cô đã yêu cầu giấy da và bút, nhưng không gì được đưa cho cô. Cô quay lại những trò chơi cũ mà các thầy thuốc tâm trí đã dạy cô, cách loại bỏ ký ức khi cô thức giấc, cách nhớ về quá khứ ngay cả khi nó bị quên lãng vào những nơi xa xăm. Trong khoảng lặng, cô thấy rằng ký ức và giấc mơ là tất cả những gì cô có, là điều đã tạo nên cô.

‘Chúng ta vẫn ở đâu đó trong Hệ Mặt trời chứ?’ cô hỏi, ngoẹo cổ nhìn ra sau. Tại sao cô vẫn nói? Nhưng tại sao lính gác vẫn không rời đi? ‘Con tàu không giống như đang chuẩn bị dịch chuyển. Chúng ta đang ở đâu?’

Họ đến tìm cô trong phòng giam trên Pháo đài Không tên ba đêm trước, bắt cô vào một chiếc hộp chỉ vừa đủ lớn để đứng thẳng. Cô cảm thấy chiếc hộp rung lên, lắc lư khi máy móc nâng nó và cả cô lên. Họ thả cô vào phòng giam này và cô nhận ra sự rung động của con tàu dưới sức mạnh của động cơ void. Thoạt đầu điều đó thật thoải mái, nhưng khi những giấc mơ của cô không còn và sự im lặng kéo dài lúc này làm cô cảm thấy càng lúc càng xa lạ theo từng giây.

‘Tại sao các người đưa tôi rời khỏi pháo đài?’ cô ấy hỏi. ‘Các người đưa tôi đi đâu?’

‘Đến nơi mà tất cả chúng ta đều mong ước được đến, thưa Mistress Oliton’, Garviel Loken nói. Cô quay cuồng, phần cuối phòng giam của cô đã biến mất và một con sói đang trỗi dậy từ một vũng nước đen bên dưới mặt trăng. Đôi mắt của nó là những khối cầu đen và hàm răng rộng mở khi nó nói. ‘Ngươi đang về nhà.’ Trong bóng tối của phòng giam, Mersadie Oliton tỉnh giấc trong im lặng và nằm đó, chờ cho giấc mơ tan dần hoặc bản thân tỉnh lại lần nữa.

Strike Frigate Lachrymae, vực sâu dịch chuyển

Con tàu đầu tiên của cuộc tấn công đã bị phá hủy ngay khi nó xuyên thủng bức màn trở lại vùng không gian thực. Các luồng plasma phóng ra từ các bệ súng, lửa trắng đập vào mũi tàu. Ánh sét làm lớp vỏ bên ngoài tàu cháy sáng chảy ra từ đằng sau. Những phát đạn khổng lồ phát nổ khoét sâu những vệt nóng chảy, cắt vào thân tàu. Tháp pháo và đỉnh chóp bị tách khỏi phần còn lại. Những ngọn tháp sụp đổ, rơi khỏi sống lưng tàu. Con tàu tiếp tục lao tới khi cả phần vòm xung quanh đã bị xé toạc. Xác tàu bốc cháy va trúng quả mìn đầu tiên nằm rải rác trong bóng tối. Những vụ nổ bùng lên xung quanh. Phần trước của con tàu bị cắt rời. Mũi và sàn tàu sụp xuống. Không khí từ bên trong vụ nổ quét ra ngoài không gian đẩy các mảnh vỡ văng đi xa, bốc cháy trong nháy mắt trước khi ngọn lửa đốt cháy hết phần không khí còn lại bị kẹt trong đống đổ nát.

‘Đã phá hủy tàu địch’, tiếng thông báo cảm biến cũ kỹ vang lên, vọng qua cầu tàu Lachrymae .

Sigismund đang theo dõi cái chết của chiếc tàu đột nhập trên màn hình hiển thị tại đài chỉ huy. Anh mặc áo giáp, kiếm xích vào cổ tay, chuôi kiếm tựa xuống boong tàu dưới chân. Anh không chớp mắt hay di chuyển khi con tàu hấp hối lao qua tầm nhìn. Trong sâu thẳm tâm trí, anh nghe thấy những lời nói đã đưa anh đến nơi này vào lúc trước.

‘Ngươi phải chọn nơi để chiến đấu. Bằng tiếng nói về trách nhiệm của bản thân ngươi hoặc chọn ở cạnh cha ngươi vào lúc cuối cùng. ‘

Xung quanh anh, đội chỉ huy im lặng, mắt dán chặt vào các dụng cụ và màn hình. Đây là thời điểm bắt đầu mà tất cả họ đều biết sẽ kết thúc những năm tháng chờ đợi. Một số, có lẽ, đã nghĩ hoặc hy vọng rằng thời khắc này sẽ không bao giờ đến. Nhưng nó đã đến, được đánh dấu bằng lửa.

‘Tôi đã chọn, Keeler’ anh nghĩ và trong đầu, anh nghe lại những lời mà Dorn đã nói khi phán xét lựa chọn đó.

‘Ngươi sẽ được giữ nguyên cấp bậc, vị trí hiện tại và ngươi sẽ không bao giờ nói với bất kỳ người nào khác về điều này. Quân đoàn và Imperium sẽ không biết về sự phán xét của ta. Nhiệm vụ của ngươi là không bao giờ để sự yếu đuối của bản thân làm nhụt chí những người có nhiều sức mạnh và danh dự hơn ngươi. ‘

‘Như cha muốn, thưa cha.’

‘Ta không phải là cha của ngươi!’ Dorn gầm lên, cơn giận dữ của anh ta đột ngột tràn ngập không khí, khuôn mặt bị nuốt chửng bởi những bóng đen.

“Ngươi không phải là con của ta,” vị Primarch nói khẽ. ‘Và bất kể tương lai phía trước có ẩn giấu điều gì đi chăng nữa, ngươi vẫn sẽ không bao giờ là con ta.’

‘Ta đã chọn,’ anh ta thì thầm với chính mình, “và đây là nơi ta sẽ chiến đấu đến thời khắc cuối cùng.’

Ngọn lửa từ con tàu chiến đã chết cháy lan khắp các màn hình.

Fafnir Rann gầm gừ: ‘Nếu chúng định tấn công chúng ta giống vầy thì cuộc chiến sẽ khó mà xứng đáng với những gì chúng ta đã chuẩn bị’.

‘Chúng sẽ không cho chúng ta sự xa xỉ đó đâu’ Boreas trả lời từ phía xa hơn trên sàn tàu. Sigismund không buồn nhìn xung quanh nơi mà anh biết Đại úy đội đột kích hay Trung úy của anh ta với các cảm biến gắn vai đang lơ lửng chớp sáng. Mỗi người trong số họ đều đã từng đứng trên boong chỉ huy của một trong những con tàu giống như chiếc Lachrymae.

Rann mặc bộ giáp Mark III void-hardened, với các đinh tán gia cố được gắn vào ống chân và vai trái của anh ấy, nơi đầy những vết sẹo từ các trận chiến diễn ra tại đây, ở rìa của hệ thống, bên dưới lớp sơn màu vàng tươi mới phủ. Tay phải anh cầm chiếc khiên boarding shield to lớn, cặp rìu đôi được giữ bằng khóa nam châm ngay sau hình vẽ huy hiệu trên khiên. Sigismund tưởng chừng có thể nhìn thấy nụ cười méo mó trên khuôn mặt Rann khi anh quay sang nhìn Boreas và nhún vai.

Hình ảnh ba chiều của Thiếu úy đội Templar không di chuyển. Thật kinh ngạc, khuôn mặt của anh ta như một vết sẹo xoắn vào nhau và nếu có bất kỳ cảm xúc nào ngoài cơn giận dữ đang ánh lên trong đôi mắt lạnh lùng đó, Sigismund cũng không thể nhìn ra được. Thanh kiếm chỉ huy của Boreas cao gần bằng anh ta, là thứ vũ khí bảo vệ dấu thánh của các Templar, trên lưỡi kiếm có khắc tên của những người đã chết.

Sigismund nói khẽ và lắng nghe mệnh lệnh của mình lan tỏa: ‘Tất cả các tàu, sẵn sàng’.

Rung động trên boong tàu tăng cao. Cơn đau âm ỉ tích tụ trong hộp sọ của anh trong những giờ qua đang ngày càng rõ nét. Anh nhận thấy một trong những phi hành đoàn con người trên boong tàu rùng mình và đưa tay quệt lên giọt máu đang rỉ ra từ mũi cô ấy.

Anh kêu gọi: ‘Hãy giữ vững lời thề của chúng ta, giữ vững sức mạnh từ mục tiêu của chúng ta’.

Những lời thì thầm văng vẳng nằm ngoài rìa dòng suy nghĩ của anh, như tiếng dao cạo trên kim loại. Anh đã phải cho tất cả Astropath dùng thuốc an thần hai giờ trước, khi một làn sóng áp lực tâm linh khiến họ nói lảm nhảm và la hét. Điều này càng trở nên dữ dội hơn theo từng khoảnh khắc trôi qua và dự đoán trước một điều: đó là tiếng vọng từ làn sóng cảm xúc rộng lớn của một cánh quân cực kỳ khổng lồ đang di chuyển trong Warp, giáng thẳng xuống Hệ Mặt trời như một mặt trận bão. Horus và những kẻ phản bội đang đến.

‘Phát hiện dấu vết tâm linh đang tăng đột biết’ một sĩ quan cảm biến hét lên.

‘Chúng đến rồi’ Rann nói và đưa nắm đấm lên ngực ‘Danh dự và cái chết’

Boreas: ‘Vì cha của chúng ta (Primarch) và Terra’.

Sigismund: ‘Vì những lời thề của chúng ta’. Hình bóng hai người anh em hiện ra trong nháy mắt. Anh với tay xuống kéo mũ bảo vệ của mình ra khỏi thắt lưng và khóa nó vào vị trí trên đầu. ‘Con cầu mong mình có đủ sức mạnh trong thời khắc này’ anh nói với chính mình khi màn hình hiển thị sáng lên trong mắt anh. Ngay lập tức, dữ liệu của trận chiến hiển thị theo hình vòng cung trải ra trước mặt anh.

Vịnh Plutonian lấp lánh với hệ thống vũ khí, bãi ngư lôi và mìn không gian. Chúng kết hợp với nhau tạo thành một mạng lưới lớn, sâu hàng chục nghìn km, trải dài từ rìa không gian đen tối đến quỹ đạo của Pluto. Những con tàu lóe sáng giữa hệ thống phòng thủ: từ những chiếc tàu tuần tra trang bị súng máy tốc độ cao một nòng với kích cỡ còn nhỏ bé hơn nhiều lần so động cơ và kho vũ khí của các tàu chiến. Chúng được chế tạo trong quỹ đạo của Luna, Jupiter và Uranus sau đó được điều đến đây, ngoài rìa ánh sáng của mặt trời. Bên cạnh chúng là hạm đội của First Sphere: hàng trăm tàu chiến, tất cả đều đang chuyển động. Và ngoài các tàu chiến, các mặt trăng của Pluto cũng đang trong trạng thái sẵn sàng. Vũ trang đầy đủ cùng những đường hầm kinh hoàng, mỗi mặt trăng đều là một pháo đài có thể chống lại cả một hạm đội.

Một mạng lưới sao rộng lớn cháy sáng, phun trào sấm sét. Không gian bị xé toạc trong con lốc. Mảng màu sắc tởm lợm và ánh sáng chói lọi tràn ra, phủ đầy khắp nơi khi các con tàu đang lao từ trong Warp ra thực tại. Hàng chục và sau đó là hàng trăm. Các Servitors cảm biến trong Lachrymae co giật và lắp bắp khi các mục tiêu xuất hiện nhanh hơn tốc độ mà họ có thể hét lên để cập nhật.

Bãi mìn bị kích hoạt, một chuỗi các vụ nổ nối tiếp nhau, trải dài băng qua bóng tối. Các bệ súng khai hỏa. Những viên đạn khổng lồ, tên lửa, đạn plasma liên tục được nhồi vào nòng súng và phát nổ. Tàu của quân phản bội bị tiêu diệt ngay khi vừa lao ra thực tại, vỏ tàu bị xé nát bởi lửa, thân tàu cùng những gì chứa bên trong bị quẳng vào bóng tối. Chỉ trong mười giây đầu tiên, trên 100 con tàu bị phá hủy, biến thành đống sắt vụn. Hầu hết đều từng là tàu chiến của Quân đội Đế chế, điều khiển bởi phi hành đoàn là những người đã tuyên thệ với Horus với phần thưởng vinh dự là lực lượng tiên phong trong trận chiến. Chúng đã chết cho danh dự đó, bị thiêu rụi trong đống đổ nát của những con tàu, mà giờ đây chỉ còn là những mảnh vỡ tràn ngập không gian.

Nhưng chúng vẫn tiếp tục kéo đến, các con tàu nối đuôi nhau xé bỏ lớp màng ngăn cách thực tại, số lượng nhiều như những lá cờ bay phấp phới trước mũi súng quân trung thành. Chiếc tàu chiến đầu tiên của Quân đoàn Astartes phản bội nổi lên từ trong Warp. Nó được đặt tên là Erinyes, thuộc lớp bombardment galleon của Quân đoàn IV: thân tàu dài 5 km cùng một hệ thống ba nòng pháo nova bao bọc xung quanh. Con tàu khai hỏa cả ba nòng ngay khi vừa chạm vào không gian thực tại. Mỗi viên đạn pháo nova có kích thước bằng một Battle Titan, lõi của nó chứa đầy plasma không ổn định. Không có điểm ngắm cụ thể nhưng thực sự cũng không cần. Những phát bắn hướng thẳng vào trung tâm hệ thống phòng thủ, bùng nổ với sức mạnh và nhiệt lượng ngang bằng thời điểm một ngôi sao ra đời. Những bệ súng bị thổi bay, những quả mìn phát nổ tạo thành những quả cầu đỏ lửa. Lửa tiếp tục bùng lên khi các tàu chiến phản bội đâm xuyên qua mảnh vỡ của các con tàu trung thành vừa bị phá hủy.

Ngọn lửa rực sáng, phủ kín màn hình cũng như tầm nhìn của chiếnc Lachrymae. Màn hình trong mũ của Sigismund bị mờ đi bởi vụ nổ.

‘Tấn công’, anh ra lệnh và Lachrymae tiến về phía trước, theo sau là đội hình 20 tàu lớp strike cruisers và fast destroyers. Tất cả đồng loạt khai hỏa, các nòng súng khạc ra lửa, cắt vào tàu địch khi họ di chuyển cắt ngang phía trước của hạm đội đối phương. Những chùm ánh sáng ma quái và vật chất ngoại lai kéo dài như những cánh tay xuyên qua bóng tối khi nhiều con tàu hơn đâm xuyên qua Warp.

Một phát súng Etheric bắn trúng chiếc tàu Imperial Fists mang tên Solar Son. Con tàu xoay tròn, thân tàu nứt toác và vỡ vụn khi sức ép không gian xoắn nát chúng. Chiếc Lachrymae và các tàu khác tiếp tục tiến lên, không hề dừng lại. Họ chỉ có một mục tiêu trong lúc này: giết càng nhiều kẻ địch càng tốt trong khi chúng vừa bò qua từ Warp lên bờ của thực tại. Đó là thời điểm mà con mồi của Imperial Fists dễ bị tổn thương nhất và khi đó hạm đội First Sphere trở thành những kẻ săn mồi.

Các khẩu súng của Lachrymae đã bắn trúng chiếc Fire Oath trước khi nó kịp bật khiên Void. Đạn pháo khổng lồ xuyên qua sàn tàu và phát nổ, nấu chín tất cả những gì bên trong con tàu phản bội. Thân tàu Fire Oath phồng lên, rồi vỡ tung. Những mảnh vỡ kích thước bằng một tòa nhà bung ra, đâm vào sườn một chiếc Battle cruiser khi nó trồi lên khỏi Warp và xé nát tháp chỉ huy khỏi lưng tàu. Không gian nơi con tàu vừa băng qua, năng lượng Warp rung lên từ vụ nổ, cuộn xoáy và nuốt chửng đống đổ nát còn lại.

‘Giữ vững’ Sigismund hét, kênh vox nổ tanh tách truyền lệnh qua các con tàu. ‘Vì lời thề của chúng ta, chúng ta sẽ giữ vững phòng tuyến tại đây’

Chiếc Lachrymae tiếp tục lao vào trận chiến khi phi hành đoàn con người của nó la hét trước những bóng ma và ác mộng tràn ngập tầm nhìn. Hiện tại, trận địa giờ đây không còn gì ngoài những mảnh vụn rách nát bị thổi bay vào không gian. Lachrymae tiến về phía trước, súng nhắm vào hết kẻ thù này đến kẻ thù khác. Nhưng sau mỗi tàu địch bị tiêu diệt, ba chiếc khác lập tức lao ra từ Warp.

Ngư lôi Deadfall được cài đặt ngòi nổ void nhắm thẳng về phía trước. Xác những con tàu bị tách ra và cháy rụi. Các pháo đài – mặt trăng của Pluto đã có thể nhắm vào những kẻ xâm lược đầu tiên và cất tiếng nói. Những chiếc khiên void mới được bật lóe lên khi chúng sụp đổ. Quân phản bội đã đáp lời. Các hạm đội dự bị đang neo gần các mặt trăng gia nhập trận chiến, bắt đầu giết càng nhiều kẻ thù càng tốt trước khi bị giết. Ánh sáng của trận chiến bùng lên, mờ đi trong ánh sáng của hàng ngàn bước nhảy từ Warp, cho đến khi không còn nhận ra bên nào đang bắn vào bên nào và tất cả biến mất trong một ngọn lửa gợn sóng rực sáng dài hàng chục nghìn km.

Vài giờ sau đó, ánh sáng của ngọn lửa đó sẽ lấp lánh trong màn đêm phía trên các trận địa của Hoàng cung khi tiếng còi báo động vang lên để báo rằng cuối cùng Horus đã đem cuộc chiến của hắn đến với hệ sao đã khai sinh ra nhân loại.

CHƯƠNG 2

HAI

Sự im lặng phủ bóng

Tro tàn và sắt

Dao găm rời vỏ

Căn cứ Bhab, Hoàng cung, Terra

Sự im lặng tràn qua Terra dưới âm thanh của tiếng còi báo động. Nó rơi vào các chợ nước ở Albia khi tiếng hò hét của người mua và người bán tắt dần, chuyển thành cái nhìn nghi hoặc giữa những người xa lạ. Nó len lỏi vào căn phòng, nơi tiếng khóc của đứa trẻ mới sinh vài giờ đang vang vọng, những lời dỗ dành tắt lịm trong miệng người cha. Nó bay theo làn khói sặc mùi cháy khét bốc lên từ các dãy phế liệu. Trên những ngọn tháp canh hướng nhìn ra phía cao tốc chạy dài đến chân Cảng vũ trụ Damocles, những người lính ngừng đi lại và nhìn lên bầu trời đêm. Trong hang động trú ẩn, hàng tỷ lính nghĩa vụ ngước lên những mái đá rồi lại cúi nhìn khẩu súng trên tay. Họ ngồi thành từng nhóm rời rạc – những người cùng gia đình,những người hàng xóm sống cùng khu, những người làm cùng ca trong nhà máy – im lặng.

Chờ.

Trong khu vực hành chính của các Hives, người ghi chép di chuyển giữa các cuộn giấy da và bút lông tự động, rà soát theo thói quen như sợ hệ thống đưa ra lời cảnh báo sai. Trên bức tường Cung điện Hoàng gia, các chiến binh nhìn mặt trời mọc trên đỉnh nhọn của bức tường phía đông, chỉ có âm thanh của gió và tiếng cảnh báo chói tai. Terra bây giờ trở thành một thế giới chuẩn bị đón nhận cú đánh đầu tiên mà kẻ thù sắp giáng xuống. Và trong giây phút chờ đợi cuối cùng ấy, sự hoảng sợ trở nên tĩnh lặng.

Ở trung tâm của Grand Borealis Strategium, Căn cứ Bhab bên trong Cung điện Hoàng gia, Đô đốc Su-Kassen cảm thấy sự im lặng lan tràn vào từng khoảnh khắc trong khi đang xem các cuộn dữ liệu qua hình ảnh ba chiều. Chúng là những mệnh lệnh căn bản cho toàn bộ hệ thống, cô trông giống như một vị thần đang nhìn xuống vương quốc tạo thành bởi ánh sáng của các màn hình hiển thị. Hạm đội chính đang hội quân, số lượng hiển thị bởi chữ số runes màu xanh, mỗi tàu là một đài chỉ huy của hàng chục nghìn tàu chiến nhỏ hơn, tàu hộ tống cùng các lớp tàu khác đang được đặt vào tình trạng sẵn sàng

‘Cập nhật hiển thị – quân số hạm đội chính’ cô nói, câu lệnh được lặp lại mỗi 15 phút một lần trong suốt 6 giờ qua.

‘Tuân lệnh’, một droned servitor đáp lại và màn hình hiển thị tự rút gọn thành một vài điểm đánh dấu với dữ liệu màu xanh lá cây. Các hạm đội lớn nhất đang đóng quân cạnh Năm hành tinh trung tâm gồm Pluto, Uranus, Jupiter, Mars và Terra. Các tín hiệu phải mất hàng giờ truyền đi từ Throneworld đến rìa hệ sao, quá lâu để có thể theo sát diễn biến thay đổi theo từng giây từng phút của trận chiến. Mỗi lãnh chúa của Quân đoàn Imperial Fists được giao nhiệm vụ chỉ huy một lớp phòng thủ: Sigismund, Halbract, Effried, Camba Diaz. Đích thân Rogal Dorn chỉ huy lớp phòng thủ thứ năm, vành đai cuối cùng bao quanh Terra. Tất cả các mệnh lệnh được chuyển đến lãnh chúa chỉ huy lớp phòng thủ gần nhất. Lực lượng binh lính được đánh dấu bằng các chấm màu với quân số và sức mạnh của từng đơn vị nhấp nháy xung quanh dưới dạng mã viết tắt. Một vài đơn vị cấp Quân đoàn bên ngoài ranh giới của Terra phát sáng như than hồng trong khi những đơn vị còn lại trông như những ngọn lửa lạnh giá. Các đốm màu hổ phách đánh dấu hàng phòng thủ cố định được bố trí xung quanh các hành tinh hoặc lơ lửng trong quỹ đạo giữa chúng. Đây là tất cả mọi thứ, từ những pháo đài void đến các bệ súng và trạm vũ trụ. Những đám mây lấm tấm chấm nhỏ màu xanh lam, gấp khúc xuyên qua khoảng trống giữa các hàng phòng thủ lớn đại diện cho những đám mây khổng lồ tạo thành từ mìn, ngư lôi deadfall và máy bay không người lái, chúng được rải dày đặc vào bóng tối như lớp bụi tung ra từ một bàn tay vô hình. Một khi trận chiến kết thúc, mọi phương pháp tiếp cận phần bên trong của hệ sao sẽ chỉ mang lại kết quả là cái chết và điều này sẽ tiếp diễn cho đến khi bản thân các ngôi sao tự sụp đổ.

Một khi trận chiến kết thúc … Đólà khi còn sót lại điều gì khác ngoài tro tàn.

Su-Kassen lắc đầu, tự đánh thức bản thân. Bức tường đầu tiên của bất kỳ pháo đài nào chính là tâm trí và sự nghi ngờ có thể đốt cháy nó từ bên trong trước khi kẻ thù thậm chí còn chưa vung lưỡi kiếm lên.

Cô rà lại dữ liệu một lần nữa. Tất nhiên, chúng không thay đổi. Ngoài kia, trên các thiên đường, ngọn lửa của trận chiến đã bùng cháy, nhưng ở đây, trong không gian thực tại của sự thật, điều đó đó vẫn chưaxảy đến.

‘Có báo cáo mới’, tiếng thông báo từ sĩ quan tín hiệu vang lên từ phía sau dãy máy móc.

‘Cho tôi xem’, cô ra lệnh.

Viên sĩ quan đáp: ‘Như cô muốn’ và cô có thể nghe thấy anh miễn cưỡngkiềm chếcảm xúc trong giọng nói.

Tiếng máy móc kêu lách cách quay cuồng, kéo dài như may một đường chỉ vào bức màn im lặng. Màn hình ba chiều mờ đi, nhấp nháy rồi tự điều chỉnh lấy nét. Cô nhìn vào hình ảnh trước mặt và chớp mắt. Màu đỏ thẫm loang rộng ra đến mép màn hình. Tâm trí cô bắt đầu đọc các chữ viết đánh dấu và dữ liệu trừu tượng, sử dụngkhả năng phân tích logic chiến thuật của mình để gạt bỏ suy nghĩ sang một bên trong lúc tiếp thu các dữ liệu liên tục được cập nhật của hệ thống phòng thủ. Đó là một cảm giác kỳ lạ, một cảm giác mà cô chưa bao giờ quen trong suốt nhiều thập kỷ sống và phục vụ. Thỉnh thoảng, suy nghĩ và sự hiểu biết của cô lại nhảy vọt, giống như cây kim trên trụ dữ liệu và ngay lập tức, cô thấy mình hiểu ra điều gì đó mà trước đây cô thậm chí còn chưa từng biết đến nó.

Từng chút một khối lượng khổng lồ các chữ rune và ký hiệu được giải mã.

Cổng Khthonic… cô nghĩ.

Vậy là nó đã bắt đầu, đúng như những gì chúng ta đã dự đoán và lo sợ.

Các con tàu không gian phải thực hiện dịch chuyển từ Warp vào vùng rìa của hệ sao, nằm ngoài điểm Mandeville –lằn ranh vô hình và bí ẩn đánh dấu vùng biên giới giữa an toàn và tự sát.Bất kỳ con tàu nào thoát ra từ bên trong điểm Mandeville đều chỉ có 1 kết cục bị xé nát bởi các lằn ranh của thực tại và nghịch lý. ‘Tái sinh để rồi chết’ là cách gọi của các hoa tiêu Navigator khi họ nói về những điều giống như vậy. Do đó, hầu hết các hệ thống đều được thiết lập phao điều hướng và các điểm tựa định vị cụ thể nơi mà con tàu có thể thoát khỏi Warp để trở lại không gian thực một cách an toàn. Một khi đã trở lại trong vòng tay lạnh giá của không gian, các con tàu phải di chuyển bằng động cơ vật chất của chúng. Hành trình từ vùng rìa của hệ đến các hành tinh lõi mất rất nhiều ngày kể cả đối với các con tàu nhanh nhất.

Tuy nhiên, Hệ Mặt trời lâu đời hơn bất kỳ thuộc địa nào khác của loài người. Du hành giữa các vì sao và dẫn đường trong Warp được sinh ra tại đây. Qua hàng chục nghìn năm, những bí mật, những kỳ quan và cả những nỗi kinh hoàng được tìm ra rồi bị tiêu hủy còn nhiều hơn những gì đang tồn tại hoặc ẩn giấu trong tất cả các thiên hà ngoài kia. Hai trong số những di tích huy hoàng của quá khứ còn tồn tại đến ngày nay là Cổng đôi (Twin Gate): điểm ổn định giữa không gian và Warp, nơi những con tàu có thể an toàn xuyên qua. Chúng di chuyển theo quỹ đạo của các hành tinh quay xung quanh mặt trời, gồm 2 cổng: The Khthonic nằm gần Pluto và The Elysian nằm gần Uranus. Khả năng thứ hai của các cổng khiến chúng càng trở nên nghịch lý hơn là tạo ra một con đường giúp các tàu không gian có thể đi vào sâu hơn trong hệ sao, cách xa điểm các con tàu thường bị phá hủy khi liều lĩnh thực hiện bước nhảy vượt qua khoảng cách ấy.

Bất cứ ai lên kế hoạch tấn công Terra bằng vũ lực đều muốn chiếm lấy Cổng đôi để có thể di chuyển lực lượng vào Hệ Mặt trời một cách nhanh chóng. Việc Horus dốc hết mọi thứ có thể để chiếm lấy chúng gần như là điều chắc chắn.

‘Điều đó không đúng…’ Kazzim-Aleph-1 kêu lên khi anh lơ lửng trên vai cô. Sứ giả của Magos mới làm việc cùng ban chỉ huy được một tuần và Su-Kassen vẫn đang cố gắng hiểu anh ta. Anh ta có vẻ logic và mạnh mẽ nhưng cũng hay do dự, một sự kết hợp mà cô chưa bao giờ nghĩ sẽ thấy ở một con người được tạo thành từ các linh kiện máy móc nhiều hơn xác thịt. Hộp sọ của anh ta đangkêu vo vo, bánh răng xoay xung quanh trong các khe chạy dọc theo chiều dài hộp sọ như đang cập nhật các thông tin ngay lúc này. ‘Có một lỗi ở đây. Dữ liệu này cho thấy có một sự dịch chuyển từ Warp vào thực tại thông qua Khthonic Path của hơn một nghìn con tàu… ‘

‘Còn hơn thế,’ cô nói nhỏ. ‘Hơn rất nhiều.’

‘Không thể được. Đây chắc chắn là lỗi. Chúng ta có một hạm đội Falcon có thể di chuyển đến Pluto trong vòng năm giờ. Họ có thể …’

‘Không,’ cô nói, giọng vang vọng trong tiếng ồn ào của máy móc. ‘Tất cả các lực lượng khác phải giữ nguyên vị trí của mình, sứ giả của Magos’

Ngay cả khi đó là điều cô nói, cô vẫn cảm thấy những lời vừa rồi đang chống lại bản năng của chính mình.

‘Đô đốc’, Magos nói, ‘các tính toán của tôi cho thấy rằng hệ thống phòng thủ của Pluto có thể được giữ vững nếu có thêm viện binh. Trong trường hợp kẻ thù quyết định dốc toàn bộ lực lượng chínhđể chiếm Pluto nhằm tạo ra một cứ điểm và bị chúng ta kiềm chân tại đó … ‘

‘Chúng sẽ không thể bị chặn lại’ một giọng nói vang lên từ bên kia căn phòng. ‘Không phải với cái giá mà chúng ta có thể chấp nhận được’

Những cánh cửa bật mở. Các chiến binh mặc áo giáp vàng cùng áo choàng đen tràn ngập căn phòng, đường gờ sắc nhọn từ vũ khí ánh lên, phản chiếu ánh sáng đang tỏa ra từ các tấm áo giáp. Mọi người lập tức cảm nhận được mối đe dọa đang lan ra, sắc bén hơn cả lưỡi kiếm trên tay họ, gầm vang trong sự im lặng lạnh lẽo.

Đi cùng với các binh lính là người vừa cất tiếng nói. Ánh sáng lạnh lẽo bật lại từ lớp áo giáp bằng vàng óng ánhcủa Rogal Dornnhư thắp lên ngọn lửa trong những viên ngọc quý gắn trên móng vuốt của biểu tượng đại bàng. Sự kiểm soát tỏa ra từ vị Primarch, rung động truyền qua không khí và ánh sáng như mộttia chớp báo hiệu cho cơn bão sắp đến. Đối với hàng tỷ người sống trên Terra, Dorn là bức tường mà kẻ thù sẽ phải tìm cách phá vỡ, là hiện thân của thách thức và sức mạnh. Nhưng thực tế, anh không phải là một hình mẫu lý tưởng mà kẻ tuyệt vọng có thể bám vào khi nghĩ về những gì sắp xảy đến; anh là sức mạnh của tự nhiên trong một hình hài biết di chuyển và biết nói, một tia sét giáng xuống từ bầu trời bị xiềng xích vào một cơ thể xác thịt để chiến đấu cho đến khi vũ trụ phá vỡ nó.

Những người lính Hoàng gia đứng cảnh giới ở các góc phòng, chào anh bằng cách đưa bàn tay nắm chặt trước ngực, nhưng chỉ có Su-Kassen cúi đầu trước Cận vệ của Terra khi anh tiến lên. Hầu hết các sĩ quan và chuyên viên phục vụ trong căn cứBhab đều là con người. Họ là những chuyên viên chiến tranh tốt nhất mà Su-Kassen từng thấy, được tuyển chọn từthành phần tinh nhuệ của quân đội Hệ Sol cũ. Những chiến binh thiện chiến của Saturnine Ordos, những chiến binh của Jovian Void Clan như cô, những chiến thuật gia từ Hội đồng cố vấn chiến tranh Terra: mỗi người đàn ông và phụ nữ trong căn phòng này đều biết kỹ năng của họ đủ tốt để có thể thách thức cả kỹ năng chỉ huy các Quân đoàn và tất cả đều hiểu rằng khi Rogal Dorn – Primarch của Quân đoàn VII và cũng là Cận vệ của Terra, bước vào, nhiệm vụ của họ là tiếp tục việc mình đang làm chứ không phải cúi chào. Đó là mệnh lệnh đầu tiên của Dorn khi tạo ra bộ chỉ huy này. Su-Kassen đã chào thay tất cả.

Nhưng khi các cánh cửa được đóng lại một lần nữa, cô biết sự hiện diện của ba người đi cùng Dorn sẽ thử thách sự tuân lệnh của họ.

Jaghatai, Đại hãn của Quân đoàn White Scars, đi bên trái Dorn, đôi mắt nhảy múa theo ánh sáng màn hình ba chiều đang chuyển động. Ở phía bên kia Dorn là một thiên thần trong bộ giáp bằng vàng, đôi cánh lông vũ màu trắng sau lưng. Sanguinius, Primarch của Quân đoàn IX, nhìn quanh, quan sát những sĩ quan con người đang chăm chú làm việc của mình, ánh mắtdừng lại ở Su-Kassen và mỉm cười. Cuối cùng là một ông già mặc áo choàng xám đại diện cho Administratum, đang tựa vào cây quyền trượng đầu đại bàng,làn da nhăn nheo trên khuôn mặt, nhưng đôi mắt lại lạnh lùng và sáng ngời. Malcador The Sigillite có vẻ già và yếu hơn những gì Su-Kassen từng thấy trước đây, nhưng áp lực toát ra từ ông chẳng kém gì ba Primarch đã khiến cô phải cúi đầu. Sự im lặng trong căn phòng trở nên đặc quánh, dường như áp sát vào mọi người khi ba người con trai trung thành của Hoàng đế và Nhiếp chính vương dừng lại bên dưới màn hình ba chiều đang quay.

‘Hạm đội First Sphere sẽ không thể giữ được phòng tuyến ‘, Dorn nói, đôi mắt đen nhìn chằm chằm vào Kazzim-Aleph-1. ‘Và sẽ không có lực lượng viện binh nào cả.’

Sứ giả của Magos đứng yên, những bánh răng nhô ra từ hộp sọ của anh ta đang quay chầm chậm. Trong một giây, Su-Kassen nghĩ rằng anh ta sẽ lên tiếng tranh luận. Trong một giây, cô hy vọng rằng anh ta sẽ làm vậy.

‘Thưa ngài Dorn, chúng ta có những lựa chọn …’ Su-Kassen đã lên tiếng, trước cả khi cô có thể tự ngăn mình lại.

‘Không’ lời nói và cái nhìn của Dorn đập vào cô như một cú đánh.

‘Sẽ như ý muốn của ngài, thưa ngài Cận vệ’, sau cùng, Kazzim-Aleph-1 cũng lên tiếng.

Từ khóe mắt, Su-Kassen nhìn thấy Khan liếc sang Sanguinius. Khuôn mặt của vị Thiên thần vẫn thản nhiên.

Rogal Dorn tiến về phía trước, mắt chuyển từ Magos sang Su-Kassen.

‘Dữ liệu ban đầu của trận chiến cho ta thấy các dự đoán của cô là không chính xác, Đô đốc.’

Cô gật đầu và mở miệng đáp lại.

‘Chúng không chính xác do bị ảnh hưởng bởi một yếu tố chiếm ít nhất là ba mươi phần trăm,’ Kazzim-Aleph-1 cắt lời, ‘có thể nhiều hơn. Tất nhiên, chúng tôi vẫn chưa thể dự báo chính xác, nhưng nếu các dữ liệu lõi phản ánh đúng thì kẻ thù của chúng ta đã mang tới một lực lượng lên tới hàng nghìn tàu từ thế giới phi vật chất’

Dorn nói: ‘Cảm ơn vì đã làm rõ điều đó, sứ giả của Magos’. Su-Kassen cảm thấy chùn bước trước sự băng giá ẩn sau từng từ trong khi Kazzim-Aleph-1 lại dường như không cảm nhận được gì.

‘Tôi được Fabricator General giao nhiệm vụ hỗ trợ mệnh lệnh của ngài trong trường hợp cần thiết để đại diện cho lập trường của Mars. Tôi … ‘anh ta dừng lại, các bánh răng đang quay và kêu vo vo, ‘… rất vui vì chức năng của mình có ích cho ngài, thưa ngài Cận vệ.’

Su-Kassen nghĩ cô đã nghe thấy Malcador cố nén cười bằng một tiếng ho. Trong khoảnh khắc ấy, cô gần như chỉ muốn tự mình mỉm cười nhưng kịp kìm cảm giác đó lại. Không khí thật căng thẳng khi sự thật của điều vừa xảy ra đang tìm cách thoát ra, phá vỡ sự yên lặng. Trong một giây, Su-Kassen tự hỏi liệu đâu đó ngoài kia, dưới tấm màn đang được dệt bằng tiếng tiếng còi cảnh báo, có người nào đó cũng đang mỉm cười cảm nhận từng giây trôi qua và tương lai đang tới ngày một gần hơn.

Sanguinius là người phá vỡ sự im lặng, anh tiến lên, bày tay vươn ra nhúng các ngón tay vào một quả cầu ánh sáng đang quay.

‘Tiếp theo sẽ là Uranus,’ anh nói. ‘Và nếu chúng vẫn chưa bắt đầu cuộc tấn công, nó cũng sẽ xảy ra sớm thôi.’

Su-Kassen thở hắt ra một hơi, cô đã nín thở trong vô thức. Xung quanh, cô cảm thấy các nhân viên bộ chỉ huy thả lỏng rồi tập trung lại vào công việc. Đó là một hành động cố ý, cô nghĩ. Chỉ bằng vài từ, vị Thiên thần đã khiến mọi việc xoay chuyển theo ý mình.

‘Tín hiệu phản hồi từ các hạm đội không gian vẫn rất rõ ràng, thưa ngài,’ Su-Kassen nói, ‘nhưng chưa có tin tức nào từ Lãnh chúa Halbract tại Uranus.”

‘Chú vẫn chắc chắn đó là cách mọi việc sẽ diễn ra à?’ Khan hỏi. Đại hãn đã lùi lại đứng gần cánh cửa, ngoài đôi mắt đang liếc nhìn Sanguinius, ngài hoàn toàn đứng yên. Có điều gì đó trong sự tĩnh lặng đang diễn ra giống như ánh chớp lóe lên rồi bị đóng băng trong cái nhìn đó. ‘Vẫn còn những khả năng khác – Horus có thể phân tán sức mạnh của hắn vào sâu hơn, sau đó tập hợp chúng lại thành một vòng tròn, khép chặt từ mọi phía, bóp nghẹt trước khi cắt chúng ta thành từng mảnh.’ Dorn nhìn Khan đáp lời.

‘Chúng ta đang nói về Horus đấy. Các chú vẫn nghĩ nó sẽ hành động như một thứ gì đó ngoài chính nó à? ‘

‘Horus đã không còn là chính mình,’ Sanguinius nói, không quay đầu lại, vẫn đang nhìn vào ánh sáng ba chiều chiếu trên tay. Su-Kassen cảm thấy sự căng thẳng quay trở lại, như thể cô và nhân viên của mình đột ngột bị quăng vào cuộc trò chuyện đang diễn ra giữa những á thần. ‘Anh đã không nhìn thấy nó, Rogal,’ Sanguinius tiếp tục. ‘Anh đã không nhìn thấy khuôn mặt của thứ đã chiếm lấy người anh em của chúng ta.’

‘Horus có thể đã thay đổi,’ Dorn gầm gừ, đứng lặng yên như Khan, ánh sáng yếu ớt của màn hình hắt lên khiến khuôn mặt anh trở nên lạnh lẽo và hốc hác trong bóng tối. ‘Nhưng những khó khăn mà hắn phải đối mặt thì không. Đó là thời gian. Hắn không có thời gian. Hắn có thể cảm nhận được hơi thở của Guilliman từ sau lưng mình. Horus sẽ phải tấn công chúng ta với tất cả những gì hắn có và càng nhanh càng tốt, nếu không hắn sẽ không đạt được gì cả. ‘ Dorn lắc đầu, nụ cười như một bóng ma lướt qua khuôn mặt. ‘Hơn nữa, đó không phải là phong cách chiến đấu của hắn.’

Sự im lặng lại tràn vào.

‘Vậy, chúng ta sẽ để nó chiếm lấy cánh cổng?” Khan nói, giọng nhẹ nhàng nhưng sắc sảo. ‘Rồi chúng ta dựng lên các hàng phòng thử, chờ đợi và hy vọng rằng những bức tường đó sẽ đủ vững chắc?’

Dorn không trả lời, ánh mắt nhìn chằm chằm vào những người anh em của mình.

‘Chúng ta sẽ giữ vững mọi bức tường, kéo dài thời gian và khiến chúng phải trả giá bằng máu cho mỗi bước tiến về phía trước.’

‘Quyết định vậy đi,’ Sanguinius nói, hạ tay xuống, rời mắt khỏi màn hình ba chiều và quay sang nhìn những người anh em của mình. ‘Và Horus sẽ phải trả 1 cái giá tương xứng bằng máu.’

Cây gậy của Malcador gõ xuống sàn. Cú đập không mạnh, nhưng Su-Kassen cảm thấy không khí rời khỏi phổi của mình.

‘Là vậy đó,’ ông nói, nhìn quanh bằng đôi mắt ngời sáng và cứng rắn. Tất cả mọi người trong phòng, cả các Primarch và con người, đều đang nhìn vào ông. Su-Kassen trông thấy nụ cười buồn trên khuôn mặt Malcador. ‘Các ngươi thấy không? Hòa bình là điều hoàn toàn có thể, dù cho nó chỉ xảy ra trong chốc lát và chỉ giữa chúng ta. ‘

Đại Hãn cười lớn làm sự căng thẳng băng giá trong căn phòng tan biến.

‘Đúng vậy đúng vậy. Chúng ta đã quên mất vị trí của mình và của cả kẻ thù’. Người cha của Quân đoàn V thoát khỏi trạng thái tĩnh lặng, di chuyển về phía trước, bước đi của ngài uyển chuyển và thoải mái, vòng qua màn hình, liếc nhìn nó và xung quanh. ‘Làm tốt đấy.’ Ngài nhìn Su-Kassen và gật đầu. ‘Nhân viên của cô sẽ nhận được sự khen ngợi xứng đáng, Đô đốc. ‘ Cô cúi chào. Trong giây phút đó, cô có cảm giác như thể Đại Hãn đã nhìn thấu mình.

Bên cạnh cô, dường như không biết chuyện gì đang xảy ra, Kazzim-Aleph-1 ngước lên từ nơi anh đang loay hoay tìm kiếm các dữ liệu thô.

Anh nói: ‘Hệ thống liên lạc thiên hà thông thường dọc hệ sao đang không có thông tin’. Tròng kính trước mặt anh ấy đang xoay tạo ra ấn tượng rõ ràng là anh vừa cau mày. ‘Tại thời điểm này, dựa vào độ trễ của các tín hiệu khác, độ trễ liên quan đến khoảng cách không gian thực, tôi đề nghị tốt nhất chúng ta nên chuyển sang sử dụng các phương pháp giao tiếp tâm linh. Ngoài ra, khả năng cảm nhận được sự dịch chuyển trong Warp của các astropath sẽ mang lại một lợi thế đáng kể. ‘ Anh dừng lại, nhìn lên các Primarch và nhân viên bộ chỉ huy như thể chỉ vừa gặp họ. ‘Mọi người không đồng tình với tôi sao?’

‘Sẽ không có thông điệp về tâm linh nào đến từ bên trong hay bên ngoài hệ sao, ‘ Malcador nói bằng giọng trầm và có phần mệt mỏi. ‘Cũng sẽ không có bất kỳ cảnh báo nào về việc có các tàu hoặc hạm đội khác rời khỏi thế phi vật chất hay không.’

‘Vì sao vậy?’ sứ giả của magos hỏi.

Malcador nhắm mắt lại và Su-Kassen thấy ông tỳ cả thân mình vào cây gậy trên tay. ‘Bởi vì xung quanh chúng ta, thế giới Warp đang tru lên từng hồi.’

Chiến hạm Battle Barge Monarch of Fire , vịnh Trans-Uranic

Những đám mây bụi phủ đầy Cổng Elysian. Một vùng không gian mở, rộng ba nghìn km, được trang hoàng lấp lánh bằng những nếp gấp của các hạt bụi mịn. Qua hàng trăm mà có lẽ là hàng nghìn năm tích tụ bởi các con tàu dịch chuyển từ Warp vào điểm không gian này đã khởi nguồn cho những dòng vật chất xám, mềm được hình thành mỗi khi lỗ thủng bị đóng lại. Jovian clans và các Navigator houses đã đặt gọi nó là Siren Ash. Họ kể những câu chuyện về những người thăm dò quặng đã cố gắng thu hoạch bụi nhưng thất bại vì chúng biến mất ngay khi bị chạm vào. Dù đúng hay sai thì sự thật là lớp bụi vẫn còn ở đó, từ từ cuộn lại lấp đầy thể tích của Cổng Elysian, như một làn khói xoắn xuýt trong quả cầu thủy tinh.

Cánh cổng được canh gác ngày đêm. Những điều đã xảy ra trong thời kỳ Old Night, những điều mà người dân sống trên Uranus vẫn còn ghi nhớ qua các câu chuyện về đội quân của ma cà rồng không gian và những người sắt. Họ xây dựng những pháo đài đầu tiên xung quanh cánh cổng, canh chừng nó với súng ống và các chiến binh. Những trạm không gian này được gọi là Đôi mắt của vị thần cổ xưa và chúng luôn đề cao cảnh giác khi phần còn lại của Hệ Mặt trời rơi dần xuống vực sâu của thời đại Age of Strife.

Sau đó, cuộc Đại Thập tự chinh trỗi dậy từ Old Earth và đưa người dân Uranus cũng như các mặt trăng của nó gia nhập đế chế Imperium non trẻ. Các trạm canh gác được nâng cấp, các gia tộc chiến binh cổ xưa theo chế độ cha truyền con nối của họ được tăng cường bởi kho vũ khí từ sao Hỏa. Các con tàu bắt đầu du hành qua cánh cổng vào thế giới phi vật chất trong khi những con tàu khác quay trở lại. Các Navigator houses tái thiết các căn cứ của họ giữa hai mươi bảy mặt trăng Uranus, khoảng không giữa các túi khí không gian khổng lồ và Cổng Elysian trở thành một dải sáng lấp lánh khi các con tàu thực hiện bước nhảy từ Warp vào quỹ đạo hành tinh và các trạm không gian void đông đúc.

Cuộc chiến của Horus đã thay đổi điều đó. Dòng chảy các chuyến tàu trở nên nhỏ giọt trong khi các trạm canh được chất đầy áo giáp và vũ khí mới. Bất kì vị trí nào đủ lớn để có thể lắp các khẩu đại pháo hoặc tổ chức một phi đội máy bay chiến đấu đều được gia cố để trở thành một pháo đài. Tại một vị trí trong số chúng, đối diện với bóng tối của Cổng Elysian, các con tàu được vũ trang đầy đủ của hạm đội Second Sphere neo lơ lửng, bất động tạo thành 1 bức tường giữa khoảng không sâu thẳm lấp lánh.

Trong cổng, bụi bắt đầu di chuyển. Một vòng xoáy chậm chạp tụ lại, cuộn xoắn vào trong. Những đám mây dài hàng trăm km trôi qua, gấp khúc. Bụi bắt đầu nổi lên. Những tia sét nhỏ xíu lấp ló giữa những đốm sáng màu xám. Những đám mây bắt đầu phát sáng, chuyển từ màu xanh lá cây sang màu tím bầm rồi ngả dần sang màu máu.

Động cơ của các chiến hạm rung lên sẵn sàng. Bên trong tàu, các astropaths bắt đầu gào thét. Trên bề mặt hành tinh và các trạm không gian, tiếng hú trầm thấp của còi cảnh báo đánh thức hàng triệu người khỏi giấc mơ về những bóng đen nuốt chửng mặt trời. Trên cầu tàu chiếc Monarch of Fire , Lãnh chúa Halbract, chỉ huy hạm đội Second Sphere, lực lượng phòng thủ của hệ Sol, theo dõi các báo cáo mờ nhạt trước mắt khi chiếc mũ đội đầu bộ giáp Terminator được khóa vào vị trí.

‘Truyền qua kênh đến toàn hạm đội và lực lượng phòng thủ,’ anh ra lệnh bằng chất giọng mạnh mẽ, đầy sức nặng của vùng Nordafrik Conclaves. Qua màn hình trong mũ, anh thấy hàng ngàn đơn vị dưới quyền chỉ huy của mình đang trong trạng thái sẵn sàng đợi lệnh. Tiếng vang từ sự hiện diện của hàng trăm tàu chiến và những lời chào hỏi thì thầm khắp kênh vox. Anh thở ra và bắt đầu nói.

‘Vì ánh sáng của Sol và trái đất Terra, chúng ta chiến đấu. Vì những lời đã thề, chúng ta chiến đấu. Vì dòng máu đang chảy trong huyết quản, chúng ta chiến đấu.’

Sau đó, anh nghe thấy những tiếng nói, lớn dần lên trong bầu không khí bên ngoài bộ giáp khi hàng trăm phi hành đoàn trên cầu tàu chiếc *Monarch of Fire *cùng khấn nguyện.

‘Vì với những viên đá đầu tiên được đặt bởi tổ tiên, chúng ta chiến đấu.’

Ngay sau đó, từng từ vang vọng qua kênh vox, chồng lên nhau khi phát ra từ hàng ngàn người cùng lúc.

‘Vì những những ngày đã qua và những ngày sẽ đến, chúng ta chiến đấu.’

Vòng xoáy bụi trong cánh cổng di chuyển nhanh hơn, ánh sáng càng lúc càng rực rỡ.

‘Vì những người đang sống và danh dự của những người đã chết, chúng ta chiến đấu.’

Những hình dạng dần hiện ra trong ánh sáng chói mắt, chập chờn như những cái bóng tạo bởi ánh chớp vừa lóe. Hàng rào bệ súng trong cùng xung quanh cổng bắt đầu khai hỏa. Hàng trăm viên đạn hướng thẳng vào đám bụi nhấp nháy. Một số phát nổ, một số biến mất. Vòng xoáy ánh sáng nhiều màu co rút lại. Các bệ súng vẫn bắn không ngừng. Đột nhiên bụi và ánh sáng nổ tung quét ra phía ngoài.

Một khe hở mở ra tại trung tâm cánh cổng, đen tối hơn cả màn đêm xung quanh. Một tiếng hét khủng khiếp vang vọng xuyên qua vực sâu không gian làm những người lính trên các bệ súng gần cổng nhất run lên. Khe hở đen kịt uốn cong, các rìa xung quanh mở rộng như một lỗ thủng bị xé ra từ một tấm vải rách nát.

Lúc này, lửa từ bệ súng phun ra dồn dập như một trận lũ. Vỏ đạn rơi vào vết nứt đang lan rộng. Những viên đạn nổ tung tạo ra các gợn sóng khi chúng chạm vào vùng không gian Warp. Một bộ ba hình dạng xuất hiện trong bóng tối. Phập phồng và quái dị, chúng đang dần tiến đến vùng không gian thực.

Chúng đã từng là những tàu vận chuyển khổng lồ, được tạo ra để băng qua dải ngân hà vận chuyển hàng đến các thế giới khác. Mỗi chiếc thậm chí còn to lớn hơn lớp tàu chiến lớn nhất. Các phiến sắt thô giờ được hàn vào hai bên sườn cùng các cụm máy phát khiên chắn void phồng rộp như những khối u dưới lớp vỏ tàu. Trong hình dáng ban đầu, chúng đã từng mang tên khác, lặng lẽ phục vụ một cách cần cù, nhưng giờ đây ý chí của Perturabo đã tái sinh và ban cho chúng những cái tên mới: Alekto, Megaera và Tilphousia. Ba con tàu được tái sinh chỉ để bị phá hủy lần nữa trong những giây phút đầu tiên của cuộc tấn công.

Lớp phòng thủ thứ hai nổ súng. Các tia laser turbo tầm xa đốt cháy từng vùng rộng hàng trăm mét xuyên qua lớp bụi chói lòa trong cánh cổng. Ba chiếc tàu Alekto, Megaera và Tilphousia tiến về phía trước, kim loại nóng chảy rỉ ra từ mũi tàu. Khiên void mở ra. Những cơn bão sấm chớp sáng chói lọi xuyên qua những đám mây bụi, chúng được hình thành khi lớp Siren Ash tích điện va chạm vào luồng năng lượng vừa sinh ra. Trận bão lữa từ các bệ súng bắt trúng mục tiêu khi ba con tàu khổng lồ tiếp tục tiến tới.

Các lò phản ứng plasma từ hàng trăm cỗ máy đã chết đã được chất đầy trên sàn và trong hầm chứa của cả ba con tàu từ trước. Chúng lần lượt sáng lên. Năng lượng tràn vào các động cơ và lá chắn. Những phát đạn khổng lồ đập vào khiên văng ra các hướng khác nhau. Các ống dẫn plasma trong lòng tàu dần rách ra. Quá trình làm nguội lò phản ứng bắt đầu thất bại và hàng ngàn servitor bị nấu chín. Đạn cùng lửa laser vò nát những tấm khiên và cắt vào lớp vỏ sắt. Lửa bùng lên, ngấu nghiến nung chảy mọi thứ như cái cách một cơn mưa làm tan chảy từng khối muối.

Dù vậy, chuyện đó cũng chẳng quan trọng. Những con tàu này không được thiết kế để có thể sống sót. Trong thời đại trước, khi mà trên Terra vẫn còn đại dương, những con tàu như vậy được gọi bằng cái tên hỏa thuyền: một cơ chế thô sơ hình thành bởi sự kinh hoàng và khả năng hủy diệt trong thời kỳ đầu của chất nổ cùng các con tàu gỗ.

Trên bệ phòng thủ, các sĩ quan pháo binh đã nhìn thấy những gì sắp xảy ra khi ba con tàu tiến gần hơn về phía tuyến phòng thủ đầu tiên. Họ đã làm mọi cách có thể để ngăn chặn điều đó.

Đạn đại bác khổng lồ xé nát từng lớp kim loại vừa được hàn vào vỏ tàu Tilphousia một cách tàn bạo ngay khi những tấm khiên đổ sụp. Một tảng sắt nóng chảy với kích thước bằng một khối hab-block bị lột xuống, đổ nhào ra xa khi ngọn lửa lọt vào khoang bên trong qua lỗ hổng và đốt cháy con tàu khổng lồ đến tận bộ khung của nó.

Lửa cùng ánh sáng phun trào từ chiếc Tilphousia. Làn sóng của vụ nổ lớn đến mức chạm tới cổng Warp vừa mở ra, nhuộm cam đám mây bụi đang quay cuồng. Hai mươi bệ súng phòng thủ cùng các sĩ quan điều khiển biến mất, cái chết của họ được đánh dấu bằng những tia sáng lóe lên rồi vụt tắt chìm nghỉm trong ngọn lửa khi kho đạn phát nổ vì quá nhiệt.

Chỉ khi toàn bộ hệ thống quét tầm gần và nhận diện mục tiêu của quân phòng thủ bị vô hiệu hóa thì ý đồ hiểm ác thực sự của những kẻ làm ra ba con tàu bọc sắt kia mới lộ rõ. Nằm sâu trong lõi chiếc Tilphousia và các tàu chị em của nó là những cỗ máy bị cướp đi từ những forge worlds đã chết. Bị phá hủy một nửa, các linh hồn máy móc của chúng vô cùng tàn bạo và được tiếp thêm sức mạnh bởi các linh mục của New Mechanicum. Những cỗ máy từng là kỳ quan của nghệ thuật truyền tin đã mất giờ đây đã biến thành những nhạc cụ của hỗn mang. Từng đợt sóng điện từ biến dạng cuồng loạn, những đoạn mã rác và bức xạ hạt nguyên tử xé toạc tàu Tilphousia cùng ngọn lửa chết chóc. Các đợt sóng xâm nhập vào hệ thống, làm mất tín hiệu bộ thu phát và khiến các servitor đang phục vụ pháo binh rơi vào tình trạng co giật. Các pháo đài void và bệ vũ khí bắn bằng tất cả những gì đang có. Trong trại thái nửa mù, họ đục từng lỗ cháy đỏ trên thân những chiếc tàu còn lại.

Nhưng điều đó là không đủ.

Con tàuAlekto phát nổ sau khi phá vỡ tuyến phòng thủ bên trong xung quanh cánh cổng. Vài phút sau đến lượt chiếc Megaera phát nổ. Các bệ vũ khí với kích thước bằng một nhà máy biến thành những mảnh vụn sắc nhọn rải khắp bóng tối. Một lớp sương mù tạo ra bởi lửa và bức xạ nuốt chửng cánh cổng, bao phủ nó trong vầng sáng chói lòa.

Halbract đã kịp giữ các con tàu của mình lại, sau khi bị mất nhóm tàu chiến đầu tiên. Chúng là những con tàu trinh sát trang bị hỏa lực thấp cùng lớp giáp đơn giản được vận hành bởi đám hải tặc trong hệ mặt trời, lũ người biết rõ cách để tiến hành giết chóc. Chúng đã ngắt kênh liên lạc với các pháo đài và bến tàu. Những khẩu đội súng trở nên im lìm ngay khi hệ thống quét của các con tàu bị che phủ. Ngư lôi bắn thẳng vào tấm áo choàng lửa đang phủ lên vùng trung tâm của cánh cổng. Trong khoảng khắc, hàng ngàn vệt ánh sáng kéo dài trong bóng tối.

Bên trong lớp màn lửa và bức xạ bao quanh cánh cổng, lực lượng chính gồm tám chiến hạm chủ lực của quân phản bội đã dịch chuyển đến thực tại, đạn sẵn sàng trong nòng súng. Mỗi chiếc đều được chọn dựa trên kích cỡ, lớp giáp và kỷ luật của thủy thủ đoàn. Tất cả đều là những con tàu đã gia nhập Quân đoàn Iron Warriors và được điều khiển bởi các sĩ quan đã từng thất bại trong Quân đoàn IV trước đó. Thất bại đó đã giúp chúng có được vinh dự băng qua lỗ hổng đầu tiên. Sự tha thứ sẽ chờ đợi những người sống sót và cái chết sẽ là sự giải thoát dành cho những kẻ yếu đuối.

Súng trên tám chiếc tàu chiến xả đạn ngay khi đến nơi. Những khẩu đại bác nova chạy dọc sống lưng bốn trong số chúng bắt đầu bắn không cần nhắm. Các phi đội máy bay khai hỏa bằng mọi loại vũ khí có thể tự động tìm thấy mục tiêu.

Các phát súng nova bắn trúng các mục tiêu đầu tiên. Mỗi viên đạn có đường kính hơn năm mươi mét và dài hơn cả một số tàu chiến cỡ nhỏ đang có mặt trong trận chiến. Được gia tốc để chạm tới mục tiêu chỉ trong một nhịp thở với tốc độ ánh sáng, mỗi viên chứa một lượng nổ đủ để phá hủy một con tàu. Các quả cầu năng lượng exotic mang theo sự hủy diệt nguyên thủy nổ tung.

Một số phát bắn trúng vào các bệ súng và trạm void, xé rách khiên và lớp giáp. Tiếp sau chúng là ngư lôi trọng lực nguyên tử va vào hệ thống phòng thủ, giải phóng nhiệt lượng và lượng phóng xạ khổng lồ. Hệ thống quét cảm biến đột ngột bị thu hẹp khoảng cách. Các trường trọng lực nghiền nát không gian, kéo các pháo đài void lệch khỏi đội hình và phá hủy lớp vỏ các tàu trinh sát.

Ngư lôi do quân phòng thủ bắn trả lao thẳng vào trận địa. Một cụm gồm hai mươi chiếc bắn trúng một trong tám con tàu tiên phong của địch, ngọn lửa bùng lên nuốt chửng phần sườn và xương sống chiếc tàu. Con tàu bị phá hủy lao xuống. Không khí bị đốt cháy phun ra từ vết thương của nó tạo thành những dòng khí nóng khổng lồ.

Trên cầu tàu chiếc Monarch of Fire, Halbract chăm chú theo dõi trận chiến từ những phút đầu tiên. Đây không phải là một cuộc chiến chóng vánh, nhưng những khoảnh khắc này sẽ trở nên rất quan trọng. Kẻ thù phải chạy đua để thiết lập một cứ điểm trong không gian thực, một điểm giới hạn mà số lượng tàu của chúng vượt xa tốc độ quân phòng thủ có thể phá hủy. Tuy nhiên, đến thời điểm hiện tại, chúng vẫn chưa thể phá vỡ thế cân bằng trên chiến trường.

Một trong những sĩ quan cảm biến thông báo ‘Thưa lãnh chúa Halbract, một thứ gì đó lớn hơn đang đến. Bóng của nó xuyên qua cả sự biến dạng của không gian.’

Một hình dạng bị đẩy qua lớp khói lửa mù mịt. Lúc đầu, nó trông giống như một tiểu hành tinh thủng lỗ chỗ hay xác một con tàu nào đó. Tiếp sau đó, phần thân to lớn lao qua vòng xoáy và dần hiện ra một cấu trúc khổng lồ tập hợp các xác chết do chiến tranh tạo ra trong hàng thiên niên kỷ – khung các tàu chiến bị cán phẳng, các tiểu hành tinh, tháp canh và pháo đài vỡ vụn, tất cả bị nghiền nát rồi trộn vào nhau dưới bàn tay của Warp. Đó là sự kết hợp ở cấp độ vĩ mô của những mảnh vụn và những thứ chết chóc khác năm ẩn giấu trong những cơn bão càn quét không gian phi vật chất, một hạt ngọc của nỗi buồn, một space hulk. New Mechanicum đã kéo nó khỏi các cơn sóng Warp và cải tiến nó. Các bãi phóng phi cơ được lắp đặt, các lò phản ứng thắp sáng vùng lõi cùng các máy phát cung cấp năng lượng cho hệ thống khiên chắn gắn trên bề mặt. Chỉ riêng việc kéo và vận chuyển nó trong Warp đã tiêu tốn hàng tá tàu không gian và một khi bị đẩy trở lại vào không gian thực, cấu trúc này sẽ không bao giờ có thể di chuyển được nữa. Tuy nhiên, di chuyển không phải là mục đích của nó. Với kích thước ngang bằng một trong các mặt trăng của Uranus, nó được chế tạo để trở thành cứ điểm giúp kẻ thù tổ chức phòng thủ ngay tại cánh cổng, chờ đợi sự xuất hiện của một pháo đài lớn hơn. Daughter of Woe là tên của nó.

Những con tàu vừa thoát khỏi thế giới phi vật chất bị đẩy nghiêng sang một bên khi space hulk dần hiện ra. Lúc này, phần thân của nó đang xuyên thủng đám mây bụi từ mọi phía của cánh cổng. Những vòng cung dài hàng trăm km phủ đầy sấm chớp Warp uốn lượn tại mép của một cái hố rộng lớn đang chọc thủng không gian.

Bụi chảy dài khắp mặt cổng Elysian như dòng thác nước rơi xuống khi một con thủy quái trồi lên từ vực sâu tăm tối của biển cả. Mảnh vỡ từ những con tàu đã chết hiện ra trên bề mặt cổng. Hứng chịu từng đợt cho ngư lôi và pháo nã thẳng vào, mặc cho những mảnh đá và kim loại văng ra, nó vẫn tiếp tục tiến đến. Máy bay tấn công cất cánh từ các bệ phóng nhanh chóng lẩn vào trong các đám mây. Các tàu khu trục nhỏ bị gắn vào bề mặt để kéo nó trong suốt cuộc hành trình băng qua Warp cắt neo và trượt vào khoảng không.

Lãnh chúa Castellan Halbract nhìn Daughter of Woe được thắp sáng bằng lửa đang phun ra từ các tuyến phòng thủ. Anh đã không dự đoán trước điều này, nhưng cũng chẳng có gì thay đổi. Những mệnh lệnh và lời thề của anh vẫn còn đó. Câu hỏi duy nhất hiện nay là họ có thể khiến kẻ thù phải trả giá bao nhiêu và cái giá mà lực lượng của anh phải trả là bao nhiêu để đạt được điều đó.

‘Khai hỏa tất cả súng của chúng ta,’ anh nói và chiếc Monarch of Fire rung lên dưới mệnh lệnh của anh.

Chiến hạm Battle Barge War Oath, vịnh Supra-Solar

Con tàu đi tiền trạm nổi lên từ màn đêm. Từng chút một, hình dạng của nó lớn dần lên, phần thương nhọn trước mũi và hàng súng răng cưa chạy dọc hai bên sườn tàu nổi bật giữa vùng không gian tối tăm tĩnh lặng. Bóng tối bốc lên từ thân tàu như từng giọt mực đen rơi trên mặt nước. Ánh sáng mặt trời chỉ có thể chạm tới phía bên kia các vòm cung bọc giáp kiên cố. Chiếc tàu được sinh ra trong ánh sáng của mặt trời nhưng đã không nhìn thấy ánh sáng ấy trong hơn một thế kỷ. Chính Hoàng đế đã đặt tên cho nó là War Oath và đến tận bây giờ nó vẫn được gọi bằng cái tên ấy, nhưng giống như Quân đoàn đang điều khiển con tàu, nó đã bị thay đổi theo thời gian. Từng làn sóng ma quái bám vào các tháp pháo, lấp đầy những vết sẹo hai bên sườn tàu. Các dấu hiệu của Quân đoàn Imperial Fists đã bị xóa từ lâu và những tổn hại do trận chiến Battle of Phall gây ra đã được sửa chữa, nhưng dấu vết của những người chủ cũ vẫn còn tồn tại bên trong con tàu.

Ezekyle Abaddon nhìn ra khoảng sáng vô định từ mái vòm thủy tinh trên đài quan sát chiếc War Oath. Đặt trên đỉnh một tòa tháp mảnh mai nằm trong lâu đài chỉ huy của con tàu, nó được xây dựng nhằm mục đích quan sát và lập biểu đồ các vì sao. Một khối lớn máy móc bằng đồng treo lơ lửng trên đỉnh mái vòm, các thấu kính, mặt số và gương bị phủ dưới một lớp bụi mỏng. Abaddon tự hỏi đống nhạc cụ này có từng được sử dụng chưa; cần gì phải mang những vật trang trí hoa mỹ và nên thơ như vậy lên một chiến hạm lắp đầy các cảm biến và máy quét tầm xa? Tiếng rít của một con quỷ neverborn vang lên trong tai hắn khi nó tan vào bộ khung sắt của con tàu. Một bóng ma với đôi mắt hình cầu cùng hàm răng nhỏ, sắc nhọn như những mũi kim đang dùng đầu móng vuốt cào dọc theo mái vòm của đài quan sát. Con quỷ nhe răng cười toe toét. Abaddon bắt gặp ánh nhìn ấy trước khi nó mờ đi tan vào hư không.

Xuyên qua cái bóng, Abaddon ngắm nhìn hệ sol như một viên ngọc xa xăm đang tỏa sáng lặng lẽ giữa dải ngân hà. Điều gì đó vụt qua khóe mắt khiến hắn liếc nhìn xung quanh và bắt gặp hình ảnh mặt trời ló dạng từ chiếc gương bạc hình bát giác đặt ở giữa sàn căn phòng. Hắn sững người, mắt dán chặt vào vòng tròn ánh sáng đang trôi nổi trên lớp bạc phủ đầy bụi bậm.

‘Các vị thần đã phù hộ và đưa chúng ta đến với ánh sáng của không gian thực tại’ Zardu Layak nói, quỳ trên sàn đá, xếp thành hình cầu vồng xung quanh hắn là những ngọn nến làm từ mỡ người đang lập lòe cháy. Tám đống tro tàn cùng bộ xương cháy đen rải rác quanh tên Word Bearer. Họ được chọn từ nhóm người phàm tục đi theo Layak và bị thiêu đốt đến tận xương tại nơi họ quỳ gối khi War Oath được dịch chuyển từ Warp ra hiện thực. Không một ai trong số những đống tro tàn kia phát ra bất kỳ âm thanh nào khi ấy. Sự im lặng đó làm Abaddon siết chặt quai hàm của mình. Một phần trong hắn đã nghĩ đến việc ra lệnh cho người lính Justaerin trong bộ giáp Terminator đang đứng ở góc phòng nổ súng vào tên World Bearer cùng nghi thức hiến tế kinh tởm của hắn và biến chúng thành một đống thịt băm trộn lẫn vụn áo giáp.

Lớp băng ma quái nứt ra khỏi áo giáp của Layak khi hắn đứng dậy. Hai lính canh mặc giáp đỏ cúi đầu, họ đứng gác trong khi hắn cầu nguyện. Layak duỗi tay và cây gậy tự động xuất hiện trong tầm với của hắn.

Abaddon nhìn chằm chằm vào những con mắt rực sáng chạy dọc thành hàng trên chiếc mặt nạ có sừng của Layak.

‘Xong rồi à?’.

Layak gật đầu.

‘Bằng ý chí của 4 vị thần quyền năng và sự dẫn đường của ngôi sao 8 cánh.’

Abaddon cảm thấy môi mình rụt lại khỏi hàm răng.

‘Ngươi không tin vào các vị thần sao?’

‘Ta tin vào Warmaster của chúng ta,’ Abaddon gầm gừ và mở kênh vox liên lạc đến bộ chỉ huy. ‘Báo cáo tình trạng con tàu.’ Tín hiệu trả lời bị nhiễu, trở nên ngắt quãng. Hắn lắng nghe, tổng hợp từng báo cáo thành một bản đồ chính xác về sức mạnh và khả năng hiện tại của con tàu. Hắn cảm thấy khá hài lòng. Nếu cần, họ có thể bắt đầu chiến đấu và chém giết ngay lúc này. Ngươi không thể biết trước có cần phải làm thế hay không, nếu tất cả đều diễn ra suôn sẻ theo cái cách mà nó nên thế, nhưng ngươi phải luôn chắc chắn rằng thanh kiếm của mình đã sẵn sàng trước khi bước vào bóng tối. Các ngón tay trên bàn tay phải của hắn co giật, quắp lại trong giây lát trước khi hắn có thể giữ yên chúng. Trong một giây, Abaddon cảm thấy như thể bóng ma của người cha phản trắc khi xưa đang cắm con dao vào tay mình khi hắn siết chặt nấm đấm.

‘Con là một thằng ngu, con trai ta!’ Hắn có thể nhìn thấy đôi mắt phía trên hàm răng nhuốm máu, có thể cảm thấy những ngón tay mình đang khoét sâu vào phần cổ họng bên dưới. ‘Nó sẽ … tuột khỏi… những ngón tay của ngươi thôi …’

‘Anh đã không được sinh ra dưới ánh sáng đó, phải không?’ Layak hỏi. Abaddon chớp mắt. Tên Word Bearer đã tiến đến đứng cạnh anh trong khung cảnh rực rỡ của mặt trời trước mắt. ‘Nhưng ở một khía cạnh nào đó, tôi cho rằng tất cả chúng ta đều như vậy. Đây là cái nôi của tất cả chúng ta, phải không người anh em? ‘

Hồi ức về quá trình cấy ghép gen của Quân đoàn Luna bỗng hiện ra, ánh kim loại sáng bóng và lạnh lẽo, sáu lưỡi dao mở ra như những cánh tay phía trên cơ thể trần trụi của anh như một con nhện đang chuẩn bị quắp lấy con mồi…

‘Ngươi sẽ được tái sinh thành một người khác …’ ai đó thì thầm nói với anh khi những lưỡi dao bắt đầu cắt vào da thịt. ‘Mặt trăng sẽ mài dũa thân xác ngươi và dòng máu trong ngươi sẽ trở nên thuần khiết.’

‘Ngươi không phải là anh em ta, linh mục,’ Abaddon đáp lại bằng sự đe dọa rõ ràng trong lời nói, đủ để khiến các vệ sĩ của Layak tiến về phía trước, rút kiếm khỏi vỏ, những vết nứt đỏ lửa lan rộng trên áo giáp.

Abaddon nhìn thẳng vào chúng, đôi mắt lấp lánh nở một nụ cười lạnh lùng.

Layak lắc đầu ra hiệu. Cả hai lính canh đứng yên, gật đầu một lần rồi lùi lại.

Một bảng dữ liệu mới lấp đầy kênh vox trong một giây. Abaddon lắng nghe và ngắt kết nối sau đó.

‘Con tàu của Thousand Sons đã dịch chuyển thành công.’

  • Đúng vậy và bọn ta đang ở đây + một giọng nói vang lên trong hộp sọ của Abaddon. Cắn chặt hai hàm răng vào nhau, anh cố gắng rũ bỏ kiểu liên lạc giao tiếp bằng ngoại cảm.

Một bóng ma hiện ra trong không trung, lung linh mờ ảo: áo giáp đỏ thẫm, xung quanh viền bằng ngà voi. Đôi mắt trên khuôn mặt mịn màng ánh lên một tia sáng xanh lạnh lẽo. Ahzek Ahriman gật đầu chào Abaddon và bước lại gần, hình bóng ma quái ấy kéo theo ánh sáng và hơi lạnh buốt giá trong không khí. Các vệ sĩ của Layak bắt đầu rút kiếm ra một lần nữa. Cái bóng của Ahriman quay lại, ánh mắt hai bên chạm nhau. Ngay lập tức, tròng mắt hai tên lính canh trở nên đỏ rực và tàn lửa màu vàng bắt đầu chảy ra từ những khe hở trên áo giáp của chúng. Ahriman nghiêng đầu, một lớp băng xuất hiện, tỏa ra phủ khắp mặt sàn căn phòng.

  • Bảo tên phù thủy kia rọ mõm mấy con chó săn của hắn lại, + hắn cảnh cáo, không hề mấp máy môi.

Những con mắt trên chiếc mặt nạ của Layak đang phát sáng và máu đang rỉ ra từ những chiếc răng nanh kim loại của nó. Một hỗn hợp mùi của lưu huỳnh và đường cháy khét trộn lẫn với mùi ozone. Abaddon liếc sang vị trí của bốn Justaerin ở rìa căn phòng. Cái nhìn đã giữ chúng ở nguyên tại chỗ.

‘Dừng lại,’ Abaddon gầm lên. Layak nhìn vào cái bóng của Ahriman trong một giây, rồi quay đi. Hai vệ sĩ của hắn tra kiếm vào vỏ, các vết nứt trên áo giáp đóng lại, ánh sáng đỏ trong mắt họ mờ đi.

Ahriman quay người và lướt về phía khung cửa sổ. Phản xạ bản năng làm Abaddon kéo căng cơ bắp toàn thân, chuẩn bị lùi lại tránh xa khỏi bóng ma đang đến gần. Nhưng anh vẫn giữ được bình tĩnh để đứng yên và dùng đôi mắt theo dõi khi Librarian của Quân đoàn Thousand Sons ngắm nhìn quang cảnh Terra bên ngoài phần thương nhọn nhô ra từ mũi tàu.

  • Quê nhà. + Miệng Ahriman không cử động, nhưng bóng tối trên đôi lông mày nhíu lại.
  • Chúng ta loại sinh vật nào mà đến từ bóng đêm, tìm về hơi ấm của ngôi nhà nhưng chỉ thấy những người xa lạ ở ngưỡng cửa?+ Hắn ngâm nga;

Layak tạo ra một âm thanh nghe như một tiếng cười khịt mũi dè bỉu.

‘Kaelic of Noropolis.’ Abaddon đáp ‘Từ bài hát Song of Passing.’ rồi tiếp lời ‘Và những con thú xa lạ nào đang hiện lên trong đôi mắt của người cha già sau nhiều năm dài đứng bên cánh cửa mở đợi chờ …’ Ahriman quay lại nhìn anh. Ánh sáng của những vì sao lấp lánh xuyên qua cái bóng mỏng manh đang suy tư. Hắn nhướng mày. Abaddon nói: ‘Chúng ta là những chiến binh, không phải lũ man rợ’. Rồi anh quay đầu nhìn về mặt trời ở phía xa. ‘Phần còn lại của hạm đội đâu?’

  • Nhìn đi, + Ahriman nói.

Các dải ánh sáng cực quang hiện lên trong màn đêm phía trước, chảy dài và cuộn tròn băng qua bóng tối. Ánh sáng của mặt trời và những vì sao trở nên mờ nhạt qua bức màn đầy màu sắc ấy, trượt dần khỏi nơi chúng đang tồn tại cho đến khi cả bầu trời bị vặn vẹo dịch chuyển sang một vị trí mới. Bóng tối hình thành trong những nếp gấp của ánh sáng, những cái bóng lởm chởm như mảnh vỡ của những ngọn giáo bị bẻ gãy.

Hàng triệu người đã chết để biến điều này thành hiện thực. Hàng chục nghìn người bị ném vào các bể hiến tế hoặc bị tống ra khỏi các khoang máy bay vào Warp. Hầu hết đã chết với những lời van xin lòng thương xót trên môi. Một số đã cầu nguyện cảm ơn các vị thần.

Họ là những nô lệ bị bắt từ các thế giới bị chinh phục, những kẻ lang thang ở khu vực sâu nhất của những chiếc tàu, thậm chí còn có một số được chọn từ những đội quân đã thề trung thành với Horus. Tất cả đều đã chết, máu và linh hồn của họ đổ vào không gian để biến điều này thành hiện thực.

Thứ sức mạnh mà Horus đã thuần phục bởi lý do chỉ mình hắn biết đã nhìn thấy những con tàu của hắn băng qua Warp và giờ đây đang đẩy chúng trở lại thực tại, xuyên qua điểm Mandeville của Hệ Mặt trời – rào cản vô hình được tạo ra bởi lực hấp dẫn của các ngôi sao, nơi mà các con tàu không thể dịch chuyển vào cũng như ra khỏi Warp.

Tất nhiên, đã có một cái giá phải trả, một cái giá đi kèm một giới hạn. Một cái giá đã phải trả bằng máu và giới hạn là đối với tất cả những con quỷ neverborn đã bẻ cong các quy tắc để đặt những con tàu này vào sâu trong quỹ đạo hệ Mặt trời, họ tuyệt đối không được xâm phạm đến chúng. Họ đã không thể dịch chuyển chiếm hạm của vị Warmaster trực tiếp vào quỹ đạo Terran. Vẫn chưa. Nhưng ngay cả như vậy thì điều mà máu và cái chết đã đánh đổi được vẫn là thứ mà một số người có thể gọi là phép màu.

Những bóng đen lởm chởm trong ánh sáng cuộn xoáy mờ đi trong giây lát. Một tia chớp màu xanh lục vụt qua khoảng không, tỏa nhánh qua hàng nghìn km. Ánh sáng bị đóng băng ngay lập tức. Một cơn rùng mình lướt qua da của Abaddon dưới lớp áo giáp. Ánh mắt anh bị khóa chặt vào khung cảnh bên ngoài tấm kính. Anh cảm thấy trái cả hai trái tim của mình cùng nhau đập từng nhịp một.

Tia chớp bị đóng băng nổ tung. Abaddon chớp mắt. Những con tàu lấp đầy khoảng trống xung quanh chiếc War Oath, hàng chục ngàn hình dạng kim loại đen tối, rộng lớn đang bốc khói nhàn nhạt. Các ngôi sao xoay tròn khi ánh sáng cực quang trải rộng ra, mơn trớn thân hàng ngàn chiến hạm vừa hiện ra hoàn chỉnh trong không gian thực tại. Quân đoàn Sons of Horus, Quân đoàn Word Bearers và New Mechanicum, một lực lượng đủ để chinh phục bất kỳ hệ sao nào, tất cả đều treo lơ lửng phía trên mặt trời như những con dao găm.

Abaddon nhìn những con tàu đang dần ổn định và thứ ánh sáng ma quái trên thân tàu đang mờ dần. Sau lưng anh, cái bóng của Ahriman cũng mờ dần. Một lúc sau, anh nghe thấy tiếng mở cửa, Layak và các vệ sĩ của hắn đã rút lui. Abaddon quay lại khi nghe thấy tiếng cửa đóng lại. Anh hít vào, đem tất cả cảm xúc nén lại thành một điểm. Anh ghê tởm cái cách mà anh và những người lính của anh có mặt tại đây. Anh càng ghê tởm sự yếu kém của Quân đoàn mình, phải phụ thuộc vào sự trợ giúp của hai Quân đoàn Thousand Sons and Word Bearers để biến điều không thể thành hiện thực. Nhưng ở đây và bây giờ, sự ghê tởm của anh không phải là vấn đề. Vấn đề quan trọng là thứ vũ khí mà cha anh, vị Warmaster, đã đặt vào tay anh. Bỗng nhiên, anh nghe thấy lời thề của mình – không phải lời thề mà anh đã quỳ gối và tuyên thệ dưới chân ngai vàng của Horus, mà là lời thề đã được trao từ lâu bên dưới ánh sáng mặt trời ở nơi đang chờ đợi anh cuối con đường này.

‘Ngươi sẽ phục vụ cho ta chứ, Abaddon?” Horus hỏi, chìa đồng xu trong lòng bàn tay ra.

‘Tôi sẽ,’ Abaddon đáp lại và nhận lấy đồng xu.

‘Tất cả các con tàu,’ Abaddon nói, lắng nghe giọng của mình vang vọng băng quan khoảng không qua kênh vox. ‘Theo mệnh lệnh của ta, cũng là mệnh lệnh của Warmaster. Để lưỡi gươm rơi xuống. ‘

Từng chiếc một, những con tàu nổ máy và lao xuống hướng về phía mặt trời.

CHƯƠNG 3

Tỉnh giấc và hồi tưởng

Quân đoàn Son of Horus

Máu và vận may

Tàu chở tù nhân Aeacus, quỹ đạo cao Uranus

Giấc ngủ đến với Mersadie như thể một tên trộm vừa đánh cắp ánh sáng, làm đôi mắt nhắm lại rồi kéo cô vào bóng tối. Cô đã cố gắng để tỉnh táo. Mặc dù biết rằng mình sẽ không bao giờ có khả năng chống lại nó, nhưng cô vẫn nhìn chằm chằm vào chiếc đèn lồng trên trần phòng giam, đứng dậy và đi đi lại lại theo một vòng tròn nhỏ giữa các bức tường khi cô cảm thấy đôi mắt mình trĩu nặng.

Cô rất không muốn ngủ. Giấc mơ đêm trước vẫn còn làm cô run rẩy trong sợ hãi. Loken, chiếc Vengeful Spirit … Có điều gì đó dường như rất… quan trọng và cô biết mình không thể tự thuyết phục bản thân chối bỏ rằng những điều xảy ra trong mơ đơn giản là không có ý nghĩa gì chỉ vì chúng không có thật. Cô đã dành nhiều năm để làm sống lại những ký ức của mình hết lần này đến lần khác, cố gắng hồi tưởng và nắm giữ tất cả những gì chi tiết nhất có thể. Giờ đây cô chỉ còn không thể ngửi thấy mùi máu và nghe thấy những tiếng la hét. Vậy nên, cô chống lại giấc ngủ, cố gắng suy nghĩ về những gì đã xảy ra trong khi bước đi vài mét trong phòng giam và nhìn chằm chằm vào ánh đèn.

Cô cố giữ cho tâm trí mình bận rộn với những câu hỏi về hiện tại: tại sao cô lại bị chuyển đi từ nhà tù xung quanh Titan đến một con tàu khác? Loken đã làm việc đó? Hay còn có một lý do nào khác?

Cô lắc đầu khi cảm thấy bản thân trầm ngâm suy tưởng trong giây lát và ngồi xuống. Không có ngày và đêm bên trong chiếc hộp kim loại này, nhưng chắc đã gần một ngày trôi qua kể từ khi cô ngủ. Cô phải thức.

Cô đang ở trên một con tàu và bị canh gác. Cô ở đây một mình hay còn những người khác? Bản năng mách bảo cô rằng sẽ có nhiều tù nhân trên tàu, nhưng cô không chắc về điều đó. Nếu có những người khác thì họ đi đâu rồi? Sẽ chẳng có ý nghĩa nếu di chuyển những tù nhân vốn là mối đe dọa đối với Imperium. Trừ khi…

Cô chớp mắt nhìn lên chiếc đèn lồng và nhận ra nó đang đung đưa. Cô phải thức. Cô phải…

Trừ khi…

Cô nhấc đầu khỏi gối và nhìn lên trần nhà. Bức tranh vẽ những chú chim đang bay bổng trên bầu trời đầy mây và ánh sáng mặt trời. Cô ngồi dậy. Cửa sổ đang mở làm gió từ bên ngoài thổi vào ấm áp. Cô có thể ngửi thấy mùi hoa cam quýt. Những cái cây dưới mái vòm thủy sinh nở hoa muộn, ngào ngạt hương thơm và đầy phấn hoa, hứa hẹn cho mùa trái bội thu. Cô nhìn chằm chằm xung quanh mình một lúc, phía đầu giường, những giá sách bằng gỗ catula và cốc nước uống dở còn sót lại trên bệ cửa sổ.

‘Không,’ cô nói to, thử xem có nghe thấy giọng mình hay không. ‘Đây chỉ là một giấc mơ.’

Làn gió lùa qua khung cửa sổ buông lơi và trong sự yên tĩnh, cô nghe thấy tiếng lách cách nhẹ nhàng vang lên từ xa, như thể ai đó đang đặt từng viên sỏi lên một tấm kim loại.

Cô đứng dậy và đi ra cửa. Các hành lang của căn nhà mở ra trước mặt khi cô đi theo tiếng động ấy. Cô không cần nhìn xung quanh trong khi bước đi. Cô chắc chắn rằng trong giấc mơ này mọi chi tiết đều sẽ hoàn hảo như trí nhớ của cô.

Cuối cùng cô cũng bước từ một cầu thang xoắn ốc rộng rãi vào trong phòng trưng bày Sunrise Gallery. Nó được đặt ở điểm cao nhất của ngôi nhà; từ đây có thể phóng tầm mắt nhìn khắp dãy núi Aska và trông thấy những ngọn tháp phía xa của các thành phố Hives dọc theo đường xích đạo Terra.

Khung cửa sổ cao với phần đỉnh mở ra để không khí bên ngoài tràn vào, những tấm rèm mỏng lay động trong cơn gió mang theo mùi mưa bị hong khô trong ánh nắng đầu tiên của ngày mới. Cô có thể nhìn thấy ánh sáng mặt trời ló dạng khỏi mái vòm to lớn làm từ kính và crom bao quanh những khu vườn bên dưới. Bị giữ bên dưới là lớp địa tầng phía trên của Terra – thứ đã bị ô nhiễm nặng nề và đang nhuộm vào không khí một màu tím hoa cà sống động.

Một người phụ nữ đang ngồi trên sàn ở giữa căn phòng, quay lưng về phía Mersadie.

‘Xin chào,’ người phụ nữ nói, nửa quay đầu lại. Một cảm giác quen thuộc thoáng qua Mersadie, nhưng cô không thể nhận ra đó là ai. ‘Đây là đâu vậy, cô không phiền nếu tôi hỏi chứ?’

‘Nhà…’ Mersadie nói, dừng lại vuốt ve một tập sách bọc da đặt trên giá. ‘Nhà của tôi trên Terra, trước khi tôi rời đi.’ Cô mở cuốn sách. Dòng tiêu đề bằng chữ viết tay The Edge of Illuminationfrom the hand of Solomon Voss chạy ngang qua trang đầu tiên.

‘Cô đã không mơ về nó trong một thời gian dài rồi, đúng không?’ người phụ nữ ngồi ở trung tâm căn phòng nói.

‘Nó không phải là nơi mà tôi có những kỷ niệm vui vẻ’, Mersadie nói và đóng quyển sách lại.

‘Cô không bao giờ quay lại cả.’

‘Không,’ Mersadie nói. ‘Căn nhà này chưa từng là nơi mà tôi muốn trở về.’

‘Vậy nên, cô đã nghe theo khả năng thiên phú của mình và để nó dẫn cô đến những vì sao ngoài kia, bầu bạn cùng bầy sói.’

‘Vâng, đúng vậy,’ Mersadie nói. Cô bước về phía trung tâm của căn phòng. Người phụ nữ kia vẫn quay lưng về phía cô, nhưng Mersadie có thể thấy cô ta đang bận rộn với thứ gì đó nằm trên chiếc bàn thấp trước mặt. ‘Cô là ai?’ Mersadie hỏi. ‘Tôi không nhớ ra cô. Vậy tại sao tôi lại mơ thấy cô? ‘

Người phụ nữ cười, âm thanh vang lên ngắn gọn và rõ ràng.

‘Cô không nhận ra tôi?’

Mersadie chớp mắt, tiến thêm vài bước.

‘Euphrati?’

Người phụ nữ trên tầng quay lại nhìn cô và mỉm cười.

‘Thật tốt khi được gặp cô.’

Mersadie dừng lại. Ngay cả trong giấc mơ này, Euphrati Keeler trông khác với hình ảnh trong trí nhớ của cô. Nụ cười đượm buồn làm bật lên sự gầy guộc và u sầu trên nét mặt cô, mái tóc cắt ngắn với từng lọn trắng xám trộn lẫn. Người hồi tưởng tuyệt đẹp đã cùng chia sẻ thời gian với Mersadie giữa Quân đoàn Luna Wolves và trong suốt quá trình sa ngã vào bóng tối của họ, đã biến mất, thay vào đó là một thứ gì đó cứng rắn hơn, một thứ gì đó được định hình bởi mục đích.

Mersadie nhìn quanh một lần nữa, rồi quay lại Keeler.

‘Đây không phải là một giấc mơ, đúng không? Giống như trước đây, khi cô nói với tôi về Loken.’ Giấc mơ đó đã đến từ nhiều năm trước, nhưng Mersadie có thể nhớ lại nó một cách dễ dàng mà không tốn chút sức lực nào. Cảm giác nó còn thật hơn cả thực tại, một khoảnh khắc kết nối chỉ có thể xảy ra theo cách mà Mersadie không thể giải thích nếu không dùng đến những từ như ‘phép màu’. ‘Cô thực sự đang ở đây, phải không, trong giấc mơ của tôi?’

Keeler trầm mặc một giây rồi gật đầu. ‘Tôi cần phải nói cho cô biết một điều và sau đó tôi sợ rằng tôi phải yêu cầu cô thực hiện một điều khác.’

‘Sao?’

‘Trước tiên cô phải hiểu đây là gì’, Keeler nói, hướng ánh nhìn đến vật gì đó trên sàn nhà trước mặt. Mersadie bước đi xung quanh cho đến khi cô có thể nhìn rõ chúng. Cô dừng lại và cau mày. Một hình tròn bằng đồng thau đặt trên mặt gỗ bóng loáng. Nó lớn cỡ cái đĩa dùng để ăn tối và được chia thành nhiều vòng. Các đĩa tròn bằng đá và kim loại được đánh bóng và khảm vào những chỗ lõm trên gỗ, Mersadie có thể nhìn thấy nhiều đĩa khác đang nằm trong tay trái của Keeler.

‘Những ký hiệu đó là của các hành tinh và mặt trăng từ ….–’

‘Từ trước cả thời kỳ Old Night, đúng vậy’, Keeler nói và tiếp tục đặt nhiều đĩa hơn vào vị trí của chúng trong mỗi vòng. ‘Hành tinh của Chiến tranh, Trinh nữ của những giấc mơ, Kẻ mang lại niềm vui. Và bên cạnh chúng là phép chia thời gian được gọi là các tuần trăng của thiên đường, những biểu tượng từng được sử dụng bởi các nhà tiên tri của Suund – Con hổ rực lửa, Mũi tên đẫm máu, Cán cân của linh hồn, Vương miện của Đại dương và vân vân’

‘Tôi biết chúng’, Mersadie nói: “Tôi đã đọc nguyên bản cuốn Chaldeantis khi ở trong những tòa tháp kính của Europa.”

‘Thật kỳ lạ khi nghĩ rằng một phần nhân loại vẫn bấu víu vào những điều như thế này ngay cả khi chúng ta đã có thể tự mình đi đến những thiên đường mà đống ký hiệu này được tạo ra để mô tả, cô có nghĩ vậy không?’ Keeler hỏi với một nụ cười không hài hước chút nào. ‘Chúng là những di tích đại diện cho sự sai lầm của triết học, nhưng giống như tất cả những thứ mà con người muốn tin vào khi già đi, có nhiều sự thật được chứa đựng trong đó hơn hầu hết những gì con người ta muốn thừa nhận để nhìn thấy. Nó thật nguyên thủy, một lời nói dối được sắp xếp sẵn, nhưng để mô tả những gì đang xảy ra thì nó lại có ích. ‘

Mersadie cau mày. Có điều gì đó trong lời nói của Keeler khiến cô ấy cảm thấy nổi da gà. Sau lưng cô, những tấm rèm cửa khuấy động khi một cơn gió thổi qua cửa sổ đang mở.

‘Euphrati, có chuyện gì vậy? Cô chưa bao giờ nói như vậy trước đây – ‘

‘Cô cần phải hiểu, Mersadie’, Keeler nhìn lên và đôi mắt cô trở nên khắc nghiệp, giọng nói như từng lưỡi dao sắt rơi trên nền đá. ‘Cô buộc phải hiểu hoặc tất cả sẽ biến mất.’ Tay cô ấy bắt đầu quay chiếc đĩa. Các biểu tượng bằng đá và kim loại bị mờ đi khi mỗi vòng của chiếc đĩa bắt đầu quay với các tốc độ khác nhau – bị mờ đi, nhưng bằng cách nào đó Mersadie vẫn có thể nhìn rõ từng biểu tượng khi nó lướt qua.

‘Những gì diễn ra trên bầu trời cũng sẽ diễn ra dưới mặt đất. Những gì diễn ra trên thiên đường cũng sẽ diễn ra ở Trái đất này. Những gì diễn ra trong thế giới phi vật chất cũng sẽ diễn ra trong thế giới thực của chúng ta’

Mersadie nhận ra cô không thể rời mắt khỏi các biểu tượng mờ ảo.

‘Horus đang tiến đến đây để chiếm lấy ngai vàng của nhân loại và giết chết Hoàng đế. Đi cùng hắn là các lực lượng của Warp. Chưa bao giờ những thứ sức mạnh ấy được tập hợp lại và cùng hướng đến một mục tiêu duy nhất như lần này. Trong thế giới vật chất, thế giới của xác thịt khi trận chiến của máu và lửa diễn ra một cách ác liệt thì một trận chiến khác cũng đang diễn ra trong một thế giới khác nằm ngoài biên giới tưởng tượng của chúng ta. Giống như Terra là trung tâm của vũ trụ như niềm tin của những nhà chiêm tinh và tiên tri đã chết thì Hoàng đế và Terra đang trung tâm nơi mà các lực lượng hỗn mang kết hợp cùng nhau hướng đến trong thế giới phi vật chất. ‘

Các vòng quay của những biểu tượng giờ đây đang chậm dần. Mersadie cảm thấy một luồng khí lạnh sau lưng mình. Cô gần như quay lại, nhưng Keeler đã lên tiếng một lần nữa, giọng nói của cô ấy còn to hơn cả tiếng gió đang rít lên.

‘Hoàng đế đang ngăn chúng lại bằng sức mạnh của ý chí và nghệ thuật. Ngài bắt chúng lùi lại và chúng không thể phá vỡ sức mạnh của Ngài kể cả trong cõi giới khác. Vì thế, Warp đã cử nhà vô địch của chúng, Horus, bằng đôi bàn tay đẫm máu của hắn, đến đây để thực hiện những việc mà chúng không thể làm được trong thế giới tâm linh. Nếu các lực lượng phòng thủ trong thế giới vật chất có thể đứng vững, thì Hoàng đế sẽ có thể tiếp tục giữ các lực lượng của Warp tránh xa nơi này. Nhưng nếu chúng ta thất bại … ‘

Vòng cuối cùng trong đĩa quay chậm lại. Lúc này gió đang cuồn cuộn thổi khắp căn phòng. Một cuốn sách rơi khỏi bàn, các trang giấy bị lật tung.

‘Hệ thống phòng ngự của chúng ta rất chắc chắn và Rogal Dorn cũng đã sẵn sàng, nhưng anh ấy không nhìn thấy toàn bộ bức tranh của chiến trường. Đây không phải là trận chiến trong không gian ba chiều hay thậm chí là bốn chiều. Đây là trận chiến trải dài giữa các cõi giới, nơi mà điều xảy ra trong thế giới này gây ảnh hưởng đến các thế giới khác, nơi mà từng hành động được thực hiện bởi bàn tay trần tục của loài người gây ra những tiếng vang vọng vào các cõi giới xa xôi khác’

Mersadie nhìn các ký hiệu sắp thành hàng trên chiếc đĩa đồng. Cô đọc được sự liên kết và tâm trí hiện ra ý nghĩa của chúng, thứ được ghi chép trên những tấm giấy da cũ mà cô đã đọc bằng sự tò mò giản đơn của mình. Cô đọc vị trí của các hành tinh và ý nghĩa của từng ký hiệu rồi ghép chúng lại với nhau theo cách phù hợp nhất. Bỗng nhiên, cô ngước lên nhìn Keeler.

‘Đây không chỉ là một phép ẩn dụ, phải không? Những biểu tượng này không phải được tạo ra DỰA TRÊN các hành tinh, mà bản thân chúng CHÍNH LÀ các hành tinh. Đây là một bản thiết kế. Chúng được sắp xếp để tiến hành một nghi lễ nào đó.’ Cô lặng đi. Những ô kính rung lên trên khung cửa sổ. Ánh bình minh ấm áp đang tối dần.

‘Thứ nghi lễ được đánh dấu bằng máu và sự tàn sát, những gì diễn ra trên bầu trời cũng sẽ diễn ra dưới mặt đất’. Keeler nói. ‘Đây là chiều không gian mà Rogal Dorn không nhìn thấy. Nếu Horus có thể biến điều này thành hiện thực thì hàng phòng thủ của ngài Cận Vệ sẽ chẳng có ý nghĩa gì cả. Cô phải gặp được anh ta. Cô phải nói cho anh ấy biết trước khi quá muộn’.

‘Ghi nhớ đi!’ Đột nhiên Keeler hét lên. ‘Nhớ lấy những gì cô đã thấy!’

Và rồi những vòng tròn biểu tượng nổi lên trước mắt Mersadie, không còn là đá và kim loại mà trở thành những vòng tròn lửa bốc cháy trong không khí. Cô cảm thấy chúng đè lên tâm trí mình, biến thành những suy luận và ý nghĩa mà cô không thể tiếp thu nổi ngay cả khi chúng được rót trực tiếp vào tâm trí cô.

‘Tại sao lại là tôi?’ Mersadie hỏi trong tiếng hú không còn nghe giống âm thanh do gió tạo ra. Những tia sáng cuối cùng bị rút đi khỏi giấc mơ. ‘Tại sao cô muốn tôi làm điều này?’

‘Bởi vì tôi không thể.’ Keeler nói: ‘Và bởi vì Rogal Dorn đã từng tin vào cô trước đây và sẽ tin cô một lần nữa. Cô đã cho anh ấy thấy sự thật về việc Horus muốn trở thành Hoàng đế. Dorn sẽ tin cô. ‘

‘Tôi đang bị nhốt – làm sao tôi có thể gặp anh ta?’

‘Một con đường sẽ mở ra.’ Keeler nói, giọng cô nổi lên trên tiếng gào thét của cơn gió cuồn cuộn thổi.

‘Nhưng cô phải tự bước đi.’ Sàn phòng rung chuyển. Bầu trời bên ngoài thâm tím màu sắt đá.

‘Họ sẽ cố gắng ngăn cản cô,’ khuôn mặt của Keeler nói trong giấc mơ.

‘Những người bạn cũ giờ đây là kẻ thù. Họ sẽ đến tìm cô.’ Một chiếc bình lăn khỏi bàn. Những bông hoa trắng và nước tung tóe khắp sàn.

‘Còn bao lâu nữa trước khi Horus đến?’ Mersadie hét lên.

‘Hắn đã ở đây rồi.’

Ô kính cửa sổ vỡ tan tành, gió bão tràn vào thổi tung căn phòng. Mersadie có thể ngửi thấy mùi tro tàn và lửa.

Rồi cô mở mắt ra trong một thế giới đang ngập tràn tiếng còi báo động hú vang.

Pháo đài void 693, Vịnh Trans-Plutonian

‘Chuẩn bị va chạm trong ba phút.’

Giọng nói vang lên trong bóng tối. Saduran đang nhắm mắt, suy nghĩ vẩn vơ, nhịp tim của anh tăng lên, nhanh gấp đôi nhịp đập của một sinh vật ngoài hành tinh.

‘Máu sẽ đổ trên các vì sao,’ Ikrek hô vang và theo sau đó là tiếng hô đáp lời từ miệng của hai mươi binh lính trong con tàu đột kích. Saduran đang hét lên những lời đó nhưng đằng sau đôi mắt, linh hồn anh tĩnh lặng. Anh có thể nghe thấy tiếng lách cách của những đồng tiền hai mặt và những lá bùa giết chóc đang gõ nhịp lên áo giáp và vũ khí.

‘Sâu trong bóng tối, chúng ta nắm quyền quyết định số phận của những mạng sống ngoài kia’ Targo gầm gừ, tính cách thô lỗ của người Cthonian** **bộc lộ qua lời nói phát ra từ miệng anh ta. Những người khác gào lên hưởng ứng bằng những câu nói lộn xộn và cộc cằn tương tự. Tất cả binh lính đều mặc những bộ áo giáp được chế tạo giống nhau hàng loạt, trang trí bằng chữ rune khắc nối tiếp nhau đặc trưng cho mỗi gia tộc cùng những lá bùa đại diện cho từng băng đảng trước ngực đang va vào nhau theo từng nhịp bước đi.

Không ai trong số những binh lính ở đây đã từng nhìn thấy hành tinh Cthonia, chứ đừng nói đến việc kiếm được vài vết sẹo khi chiến đấu trên bề mặt của nó. Đơn vị của họ là một tập hợp hỗn loạn những con người được kéo ra từ góc tối của hàng chục thế giới: Norane, Vortis, Manhansu, Cylor, Neo-geddon và những nơi bị lãng quên khác trước cả khi chúng được gọi tên. Những băng đảng giết người, những chiến binh đến từ các gia tộc, những tên cặn bã cuồng tín man rợ. Chúng chỉ có một điểm giống nhau duy nhất – đó là đã sống sót sau một quá trình kinh khủng mà chúng bị ném vào.

Các Apothecaries và bio-adepts đã bắt đầu những đợt sản xuất với đơn vị tính lên đến số lượng hàng chục nghìn. Thuốc và chất kích hoạt gen được đưa vào các ứng viên triển vọng nhỏ tuổi. Hàng nghìn đứa đã chết chỉ trong bước đầu tiên, xác của chúng bị kéo ra khỏi giá đỡ và ném vào các thùng tái chế. Quá trình vẫn tiếp tục diễn ra mà không có bất kì sự trì hoãn nào. Cắt xẻ, cấy ghép, tiêm thuốc, nhồi trực tiếp thông tin cần thiết vào não bộ bằng mũi khoan kết hợp thôi miên. Những đứa chưa chết được chuyển qua bước kế tiếp và một đợt xác thịt tươi sống khác ngay lập tức được đẩy vào. Qua từng bước, ngày càng nhiều xác chết. Những đứa trẻ sống sót sau cùng được nuôi dạy và nhào nặn vào hình dạng của một Space Marine.

Khi mọi chuyện kết thúc, khi chúng bị ràng buộc bởi bộ giáp và lời thề với Quân đoàn, chúng trở thành những người lính Son of Horus, những chiến binh sẽ chiến đấu trong một cuộc chiến mà chúng chưa bao giờ biết nó bắt đầu ra sao và sẽ còn kéo dài rất lâu sau cái chết của chúng

Rất nhiều tân binh Sons of Horus học theo truyền thống của các cựu binh từ thời kỳ trước khi Hoàng đế phản bội, chúng quấn những đồ vật trang trí quanh mình, như cái cách trẻ em học theo người lớn với hy vọng tìm được một nơi nào đó mà chúng thuộc về. Cthonian là ngôn ngữ của nơi đó và biểu tượng các băng đảng của nó là dấu hiệu của địa vị. Các giáo phái chiến binh sinh sôi nảy nở trong hàng ngũ binh lính non trẻ dưới những cái tên khác nhau: Những đứa con trai của mắt, Kẻ tạo ra xác chết, Hội anh em của con quạ thứ bảy và còn nhiều nữa, tất cả đều được xâu chuỗi lại với nhau bởi những nghi lễ và các nền văn hóa bị xáo trộn từ các thế giới đã cống hiến cho Quân đoàn dòng máu tươi của nó.

Saduran cũng nói thứ tiếng đó, cũng mang những dấu hiệu đó như những người khác, nhưng anh cảm thấy không cần thiết phải tìm ra nơi mình thuộc về. Bởi vì anh có thể nhìn thấy vũ trụ này, thời điểm này thực chất là gì – đây là thời đại của sự tàn bạo, của những kẻ giết người và không cần bất kì dấu hiệu nào để biết anh đang ở đâu trong đó.

‘Còn ba mươi giây, hãy sẵn sàng,’ giọng viên phi công vang lên.

Saduran mở mắt ra. Màu đỏ và xanh của màn hình trong chiếc mũ đội đầu tràn ngập tầm nhìn của anh. Ikrek ngồi đối diện, khẩu bolter kẹp chặt vào dây đeo bên hông, một chùm lông màu đỏ nổi bật trên chiếc mũ đội đầu gia cố đầy vít của anh ta. Người trung sĩ đấm nắm đấm vào ngực mình khi động cơ chiếc tàu đột kích tăng tốc.

‘Vì Warmaster của chúng ta!’

Một tiếng hét rung lên dọc thân tàu khi những khẩu magna-melta khai hỏa.

Cú va chạm của con tàu chụp vào Saduran với một lực đủ làm gãy xương. Trong một giây, anh bị mù khi trọng lực hút cạn máu khỏi đôi mắt. Rồi sợi dây an toàn bằng nam châm đứt tung và anh nhận ra mình đang chạy về phía trước, sàn tàu kêu vang dưới chân.

Saduran lấy lại tầm nhìn đúng lúc để nhìn thấy đầu của Ikrek biến mất. Những mảnh ceramite và xương vỡ vụn văng khắp áo giáp của anh.

Đó là một phát đạn nổ chậm bắn ra từ đại bác hạng nặng. Nhịp tim anh bắt đầu đập nhanh gấp đôi.

Một viên đạn bắn trúng xác Ikrek khi nó rơi xuống.

Saduran tránh sang trái. Tay nắm chặt khẩu bolter.

Một phát đạn khác bắn trúng một đồng đội ngay phía sau anh. Người chiến binh chỉ kịp thở hổn hển lần cuối trước khi đổ sập xuống.

Ký tự runes biểu thị kẻ địch sáng lên đỏ rực băng ngang qua tầm nhìn của Saduran. Anh bóp cò.

Đơn vị của anh đang ở trong một khu vực hình vòm liền nhau nằm giữa ba hành lang rộng lớn. Không khí đang lao ra khỏi các cạnh của vết thủng do chiếc tàu đột kích gây ra khi đâm xuyên qua bức tường bên ngoài. Những cánh cửa chống cháy đang nhanh chóng hạ xuống, che lấp lối vào các hành lang. Một khẩu pháo tự động được hạ xuống từ một cửa sập trên mái. Thứ máy móc nô lệ được che chắn bằng các tấm ceramite, nó trút cơn mưa đạn không ngừng nghỉ xuống Saduran và đội của anh.

‘Phá cửa mau!’ Saduran hét lên khi anh nhắm bắn vào khẩu pháo một lần nữa. Vụ nổ nung chảy các tấm khiên của nó. Những mảnh vỡ sắc nhọn văng khắp nơi, va vào mũ đội đầu của Saduran rồi dội ra như mưa đá. Nòng súng giật mạnh, nhắm mục tiêu vào anh.

Bốn người lính chạy nhanh về phía những cánh cửa đang đóng chặt. Nòng pháo xoay khỏi Saduran và khoét những lỗ to tướng qua thân hình hai người số đó. Saduran chợt nhìn thấy ánh sáng phản chiếu của ống nhắm mục tiêu nép sát cạnh nòng pháo. Anh bắn một loạt ba viên đạn bolter vào vị trí ấy. Khẩu pháo xoay tròn, nhả đạn liên tục không mục đích, đục thủng sàn và tường xung quanh.

Các lực lượng khác vẫn chưa có mặt, nhưng họ sẽ đến. Đây là một trong những pháo đài sao bảo vệ các lối dẫn vào Pluto và khu vực xung quanh Cổng Khthonic. Giống như tất cả những pháo đài khác, nó có kích thước bằng một tàu lớp battle cruiser, một con quái thú khổng lồ làm từ đá và kim loại có chiều ngang ba km, được trang bị đầy súng pháo và máy phát lá chắn void. Phải cần một lực lượng cấp battle group để tiêu diệt 1 cái như thế này và rất nhiều tàu sẽ bị phá hủy để có thể thực hiện được điều đó. Tuy nhiên, quân phản bội có hàng trăm con tàu dự phòng cho việc này và nếu có thể chiếm được pháo đài sao này, nó sẽ đủ sức mạnh bảo vệ 1 hành lang không gian thẳng tới các pháo đài mặt trăng của Pluto. Các con tàu có thể di chuyển thông qua lối vào ấy. Vì vậy, một tiểu đoàn tân binh Sons of Horus đã được tung ra để chiếm lấy nơi này bằng bằng lưỡi kiếm và máu của chúng. Nó giống như đục một cái nêm vào một quả cầu đá – nếu cái nêm được đục đủ sâu thì quả cầu sẽ bị nứt ra, sau đó vỡ tan.

Hai trong số những squad-brothers trong đội của Saduran đã đến được một trong những lối vào kịp lúc cánh cửa chống cháy chưa đóng chặt hoàn toàn. Họ kéo các khối thuốc nổ melta từ sau lưng, đặt chúng vào khoảng trống cực nhỏ còn lại ở cuối bậc cửa và nhảy sang một bên. Thuốc nổ được đặt vừa kịp lúc cánh cửa hạ xuống. Những quả cầu ánh sáng chói mắt gào thét trong không khí. Phần dưới của cánh cửa bị đổ sập, ngập trong một lớp kim loại nóng chảy. Saduran đã chạy đến lối vào.

Một làn sóng áp lực gần như thổi bay Saduran khi con tàu đột kích thứ hai đâm xuyên qua lớp vỏ của pháo đài. Anh tiếp tục tiến về phía trước.

Từng tia Las-fire quét xuống hành lang, hướng về phía Saduran. Anh có thể thấy một lô cốt chắn ngang lối đi, các nòng súng nhô ra từ phía trên một phiến plasteel.

(Plasteel một dạng vật liệu có tính chất giống nhựa cùng độ bền của thép được phát triển trong thời kỳ Dark Age of Technology và được sử dụng rộng rãi bởi Imperium nhưng việc chế tạo rất nhiều các loại áo giáp cá nhân cho bộ binh).

Loạt đạn vừa rồi bắn trúng giáp vai và tay trái anh. Các mảnh ceramite bị nứt và chảy ra. Anh ta nghe thấy tiếng hét khi tiểu đoàn mình đang vượt qua lỗ hổng phía sau lưng. Đạn bolter bay vụt qua anh và nhắm vào công sự trước mặt. Tiếng hét xung trận Cthonian vang lên trên tiếng súng.

Không có ích gì khi đứng lại để bắn trả; điều đó chỉ sẽ khiến Saduran bị giết nhanh hơn. Anh cần đến đủ gần để kẻ thù không thể tiếp tục bắn, đủ gần để những bức tường kia không thể bảo vệ được chúng. Chiến thuật tấn công mũi giáo, nhiều người trong số những tân binh đã gọi nó như vậy, có lẽ bằng một sự tôn trọng và tự hào trong lời nói của họ. Saduran có thể thấy sự giống nhau trong cách gọi, nhưng đối với anh nó chẳng liên quan gì đến Quân đoàn cũ hay việc mô phỏng những truyền thống của họ. Đó chỉ đơn giản là cách tốt nhất để giành chiến thắng.

Một viên đạn las-bolt cắt xuyên qua phần dây cáp lộ ra bên ngoài trên đùi trái, ký tự rune cảnh báo sáng lên, Saduran cảm thấy mô tơ trợ lực ở chân trái khựng lại, giật cục. Anh còn cách lô cốt địch mười bước chân, sau lưng là nhiều đồng đội đang tiến lên. Anh lấy đà trong vài bước chạy cuối cùng và nhảy lên. Anh nhìn thấy một người lính trong chiếc mũ bảo vệ hở mặt giật mình quay lại, súng giơ lên. Đôi mắt đằng sau khe nhìn mở to.

Saduran cảm thấy thời gian như ngừng lại, trở thành một dòng chảy, trở thành một lời hứa về những gì sẽ đến. Tâm trí anh quay trở lại những năm ngắn ngủi khi còn sải bước chạy ngang qua những vách đá cheo leo trên thế giới nơi anh sinh ra, những tiếng hú của những người thợ săn sau lưng anh, cơn đói trong bụng và nỗi sợ hãi trong lồng ngực. Đây là điều mà những anh em – những đồng đội còn lại của anh không thể hiểu được. Các chỏm lông màu trên mũ hay các dấu hiệu giết chóc, những thứ được người Cthonian gọi là ngôn ngữ và danh hiệu của chiến tranh – tất cả đều chỉ là lớp bọc giả dối bên ngoài món quà thực sự mà họ được ban tặng.

Saduran chạm vào đỉnh của tường rào và nhảy vào bên trong. Người lính gần nhất quay lại nổ súng vào anh ta nhưng Saduran đã bóp cò trước. Khẩu bolter rung lên trong tay anh. Kẻ địch nổ tung trong một trận mưa máu và vụn áo giáp bị nung chảy. Saduran lao sâu vào trong công sự địch, rải từng loạt đạn bolter về phía trước. Một người lính, dũng cảm hơn những người còn lại, đâm anh ta bằng một lưỡi lê xích (chain bayonet). Saduran bắt lấy nòng súng trường đằng sau lưỡi kiếm đang quay và giật mạnh nó xuống. Cánh tay của người lính bị bẻ gãy, tiếng thét của anh ta vang lên và tắt lịm khi Saduran quăng cái cơ thể tội nghiệp ấy đập vào tường. Máu loang trên sàn, tiếng súng gõ từng nhịp trong làn khói mịt mùng. Saduran cảm thấy từng nhịp đập của trái tim và tiếng máu chảy bên tai, một tiếng sấm vang rền gào thét nổi lên từ sâu bên trong linh hồn.

Đây là nơi họ thực sự được tái sinh, nơi xác thịt của quá khứ bị lột bỏ. Không phải bên dưới những lưỡi dao chirurgeon hay sự biến đổi gen được nhồi vào cơ thể họ mà là tại đây trong sức nóng và mùi đặc trưng của chiến trường. Đây mới là nơi là họ được sinh ra.

Một sĩ quan địch lao vào anh trong làn khói, thanh power sword phát sáng trên tay cô ấy. Saduran cảm thấy mình mỉm cười khi nhìn tia chớp bọc lấy lưỡi kiếm của con người kia. Đây là niềm vui, là vinh quang, là cuộc sống thăng bằng trên lưỡi dao sắc nhọn. Viên sĩ quan địch lao tới. Anh xoay người sang một bên, đổi hướng báng súng của mình để bắn vào vị trí trống trải vùng bụng. Khẩu bolter kêu lên 1 tiếng clack trống rỗng. Lưỡi kiếm đâm vào không khí nơi anh vừa đứng. Cô ấy nhanh – rất nhanh – và tung đòn trôi chảy một cách đáng kinh ngạc.

Saduran đấm về phía trước, nhưng thanh kiếm của viên sĩ quan địch khéo léo đập nhẹ vào bên cạnh. Lưỡi kiếm cắt qua cánh tay. Xẻ đôi lớp giáp ceramite. Máu tuôn ra, bốc khói mù mịt khi chạm vào trường năng lực xanh xung quanh lưỡi kiếm. Saduran cảm thấy những liều thuốc kích thích truyền thẳng vào máu khi chức năng sinh học của anh tự động điều tiết để giảm bớt cơn đau. Anh lao toàn bộ trọng lượng của mình về phía trước. Người sĩ quan tránh sang một bên và vung kiếm chém ngang nhắm vào phần giáp dưới cánh tay …

Bên trong áo giáp, Saduran cảm nhận được sự đau đớn và mùi của thịt cháy khét.

Đây là khoảng cách giữa những cựu binh và lính mới. Anh đã luôn là một kẻ giết người trong phần lớn cuộc đời của mình, nhưng mới là một tân binh của Quân đoàn này chỉ trong vài tháng. Anh có sức mạnh vượt xa người bình thường cùng tất cả các kỹ năng chiến đấu khi được đào tạo thực chiến bằng phương pháp thôi miên trong suốt sáu tháng. Nhưng anh ta, giống như cơ thể vừa được tái sinh của mình, thiếu đi sự khéo léo và những kỹ năng đã được mài dũa để phù hợp với sự tàn bạo và sức mạnh đang có. Đây cũng chỉ là một con người bình thường và một người lính của Quân đoàn đáng ra không được đổ máu vì một vết cắt của đám trần tục này. Anh nhanh hơn, mạnh hơn, nhưng ở một mức độ nào đó, anh ta vẫn chỉ là một thằng nhóc với mong muốn giết người, bị biến thành một thứ gì đó mạnh mẽ hơn người bình thường, nhưng còn kém xa so với một vị thần.

Saduran quăng khẩu bolter đi và rút con dao găm khỏi thắt lưng. Viên sĩ quan con người đang cuộn mình lại, xoay lưỡi kiếm của cô để cắt vào phần nối dễ bị tổn thương phía sau chân anh. Anh tóm được ả, các ngón tay của bàn tay trái mở nắm lấy tay ả, con dao dăm trên tay phải giơ cao chuẩn bị moi ruột kẻ thù. Động tác của anh không nhanh, không thanh lịch như ả nhưng nó vẫn sẽ khiến toàn bộ ruột của cô nàng tung tóe đầy sàn nhà.

Saduran đã không nhận ra một chiến binh giáp vàng đang tiến lại gần, cho đến khi mọi việc gần như đã quá muộn.

Anh chỉ kịp nhìn thấy một hình ảnh phản chiếu mờ ảo từ chiếc mũ sáng bóng của ả sĩ quan và và nhảy lùi lại. Khoảnh khắc đó đã cứu mạng anh ấy. Thanh chainsword cắt vào giáp vai, bắn ra từng tia lửa. Anh quay lại, thoáng thấy hình ảnh một chiến binh mặc áo giáp vàng không đội mũ. Anh không có cơ hội phản ứng nào khác ngoài việc đưa con dao găm lên chặn những chiếc răng của thanh chainsword trước khi nó xé toạc bụng mình. Với một tiếng hét của kim loại bị bẻ gãy, lưỡi kiếm bị vỡ nát, văng khỏi tay anh. Những chiếc răng adamantine rời ra khi xích của thanh chainsword tuột khỏi vị trí của nó. Người chiến binh giáp vàng thậm chí không cần dừng lại mà tiếp tục đẩy thẳng chiếc khiên vào giáp mũ của Saduran. Saduran loạng choạng, tông vào bức tường rào phía sau và lợi dụng sức bật để lao về phía trước, vai hạ xuống nhằm húc bay chiến binh màu vàng – nhưng kẻ thù của anh ta không phải là một tân binh như anh. Đây là một người con kỳ cựu của Dorn, dày dạn kinh nghiệm cả trong chiến tranh lẫn trong các cuộc thanh trừng những người anh em cũ. Người chiến binh lùi lại, phản ứng nhanh như chớp, đưa khẩu súng lục lên và bóp cò.

Saduran ngã về phía sau, cơn đau bùng lên khắp người anh. Viên đạn thứ hai phát nổ vào đúng phần giáp bị viên đạn thứ nhất xé rách. Máu, những mảnh xương đen và áo giáp vỡ vụn phun ra. Anh ngã xuống, thở hổn hển, cơn đau tràn ngập các dây thần kinh và mùi máu ngập trong hơi thở. Chiến binh màu vàng đã chuyển mục tiêu của mình sang việc tống đạn pháo vào các đồng đội của Saduran khi họ tiếp cận hàng rào chắn. Nữ sĩ quan con người đang tiến về phía anh, vẫn đủ sức nâng lưỡi kiếm. Đám binh lính xộc xệch sau lưng cô đang nổ súng liên hồi. Không một ai trong số họ thèm nhìn Saduran. Họ xem anh như đã chết, chỉ còn là một đống thịt trong hình dáng một người lính của Quân đoàn bị cơn sóng chiến tranh ném sang một bên. Thế giới của anh giờ đây chỉ còn một vệt đỏ mờ.

Viên sĩ quan bước lại gần, đặt một chân lên bộ ngực tàn tạ của anh và kề mũi kiếm của cô vào cổ anh. Anh cố hít một hơi thở đầy máu khi cô đang kéo căng cơ bắp, chuẩn bị đâm lưỡi kiếm hướng lên từ phần cằm. Tay anh vụt ra. Cô cố gắng đâm xuống, nhưng bàn tay anh đã vòng qua cổ tay cô, siết chặt và nghiền nát. Xương vỡ vụn và anh giật mạnh khiến cô ả rời chân khỏi mặt đất. Anh nắm lấy lưỡi kiếm trong tay ả và xoay nó, bẻ gãy những ngón tay như cành cây khô và cưa nó vào cổ ả.

Saduran bật dậy, gầm lên chống lại cơn đau cố kéo anh xuống. Máu và những mảnh vỡ của bộ giáp đổ xuống từ người anh. Người lính Imperial Fist quay lại, nhưng quá chậm và quá muộn. Saduran đã đâm thanh powersword vào bụng kẻ thù vừa đánh bại mình.

Saduran nghe thấy tiếng la hét và tiếng nổ chói tai khi một phát đạn melta đục thủng một lỗ trên bức tường lô cốt địch, nhưng thế giới của anh đã chuyển sang màu đỏ rực, anh nghe thấy mùi sắt và tiếng tim đập trong lồng ngực nhấn chìm những âm thanh còn lại.

Tàu chở tù nhân Aeacus, quỹ đạo cao Uranus

Mersadie bừng tỉnh và đứng dậy, phòng giam giờ đây ngập tràn ánh sáng đỏ. Còi báo động hú vang. Sàn tàu đang rung chuyển. Mọi thứ đều đang rung lắc dữ dội. Tiếng súng và từng loạt đạn liên thanh vang vọng qua cửa phòng giam. Cô lùi lại một bước.

Cánh cửa bật tung, mở ngược vào trong. Giây tiếp theo, cô nhìn thấy một người lính gác mặc giáp đỏ và đeo mặt nạ bạc, trên tay đang cầm khẩu súng giơ lên. Cái lỗ đen ngòm đầu nòng súng hiện ra to lớn trong mắt cô. Sàn tàu bật tung lên. Cả thân hình Mersadie bị quăng mạnh khi sàn phòng giam lật nghiêng. Người lính gác bóp cò. Tiếng đạn nổ trộn lẫn những âm thanh khác tràn ngập không khí. Cô va vào một bức tường và cảm thấy không khí bị ép ra khỏi phổi. Người lính gác ngã nhào khỏi cửa, những cánh tay và khẩu súng vụt qua trước mặt cô. Căn phòng xoay trở lại. Mersadie bò dậy từ bức tường, lơ lửng, đôi tay quờ quạng trong không trung. Người lính gác đập vào một bức tường khác và bật lại. Những hạt máu màu đỏ như những hạt ngọc trai phun ra từ bên dưới của mặt nạ. Cô đâm sầm vào anh ta. Súng lại nổ, cánh tay cầm súng của người lính gác giật mạnh, tiếng xương vỡ vụn vang lên. Viên đạn dội lại từ sàn và găm vào tường. Mersadie hét lên khi cô cảm thấy có thứ gì đó đập vào lưng mình, đó là cơ thể tên lính gác vừa bị xoay vòng trở lại, chân tay buông thõng, máu rỉ ra từ người hắn lơ lửng tụ thành từng giọt hình cầu. Mersadie cũng đang bị xoay vòng hết bên này sang bên kia, cô nhìn thấy cánh cửa mở toang, trần nhà và những bức tường lướt qua trước mắt.

Trọng lực được khôi phục và kéo cô đập xuống sàn. Tên lính rơi ngay trên người cô thành một mớ hỗn độn. Cô thở hổn hển. Còi báo động vẫn đang kêu vang, khung cảnh xung quanh đỏ rực màu đèn hiệu cảnh báo. Cô cố gắng gạt cái thân thể rách nát kia ra khỏi người. Mớ cơ bắp đã bị hao mòn bởi bảy năm giam cầm trong một không gian nhỏ hẹp gắng sức gào lên. Người tên lính đang co cứng lại. Tiếng ọc ọc ướt át phát ra từ chiếc mặt nạ bằng crom nứt toác. Mersadie dùng hết sức đẩy hắn xuống sàn rồi trườn sang một bên. Tên lính lên cơn co giật và nôn khan. Cô nhìn ra cửa, ánh sáng đỏ nhấp nháy phía bên ngoài. Cô có thể nghe thấy tiếng la hét nổi lên trên tiếng còi báo.

‘Cô phải gặp được anh ta,’ giọng Keeler rít lên trong suy nghĩ của cô. Cô đứng dậy và bước một bước về phía cửa.

‘Làm ơ…’ tên lính rên rỉ. Mersadie do dự, rồi quay lại. ‘Làm ơn…’ hắn thều thào. Cô có thể nghe thấy nỗi đau trong giọng nói của hắn. Cô có thể nhìn thấy một phần khuôn mặt hắn qua chiếc mặt nạ bị vỡ: trẻ tuổi, máu đang chảy ra từ miệng và đôi mắt xám đang nhìn. Cô bước lùi lại một bước về phía hắn. Đôi mắt xám ấy đang nhìn chằm chằm vào cô. Hắn đột ngột giơ súng lên. Đó là một khẩu súng lục, nòng súng chỉa thẳng vào cô. Trong một giây, toàn thân cô lạnh toát khi nhận ra hắn đã rút súng chờ sẵn trong lúc cô đẩy hắn khỏi người mình. Cô nhìn thấy khuôn mặt vặn vẹo khi hắn nỗ lực bóp cò. Cô lao ngược về phía cửa. Một viên đạn găm vào phần khung. Cô xoắn xuýt xoay người, lồm cồm lùi lại khi một viên đạn khác găm vào bức tường ngay phía trên cô. Cô chụp được tay nắm, kéo nó bằng tất cả sức lực rồi đứng dậy và bắt đầu chạy, đôi chân trần đập mạnh vào sàn tàu cứng rắn khi những viên đạn găm vào tấm plasteel phía sau.

Cô chạy ngang qua nhiều phòng giam khác. Một số đã bị mở ra. Các xác chết, đỏ và đẫm máu đang nằm trên sàn nhà. Cô nghe thấy tiếng đập tay và tiếng hét của những người khác. Sàn nhà lại lắc lư. Cô nhìn thấy một cánh cửa bị niêm phong ở cuối hành lang phía trước, những sọc chữ V màu vàng đen được sơn cắt ngang cánh cửa. Cô còn cách chỗ đó ba mươi bước. Cô chạy loạng choạng một cách khó nhọc.

Cánh cửa màu vàng đen bật mở. Mersadie sững người. Những tên lính gác trong bộ giáp đỏ đen với mặt nạ bạc đang tiến tới, đèn báo động nhấp nháy phản chiếu từ tấm chắn trên mặt nạ. Xung quanh cô, tiếng la hét tràn ngập khắp nơi. Cô có thể nhìn thấy một khoảng không rộng đằng sau cánh cửa, kim loại, ánh sáng nhấp nháy lấp đầy một ngã ba hình vòm ngã rộng lớn.

‘Giúp tôi với!’ Tiếng hét phát ra từ bên cạnh cô. Tên lính đầu tiên bước qua cửa mang theo một một khẩu đại bác bốn nòng nẹp chặt vào cánh tay. Mersadie có một giây để nhìn thấy hình ảnh phản chiếu của chính mình trên chiếc mặt nạ của tên lính. Không có nơi nào để ẩn nấp và cũng không có nơi nào để chạy trốn.

Không gian bên ngoài cánh cửa màu vàng và đen đột nhiên biến mất. Tiếng rít của kim loại bị xé toạc vang trong không khí. Tên lính gác mang khẩu đại bác bị giật ngược khỏi cánh cửa như vừa bị kéo bởi một sợi dây vô hình. Mersadie lao tới một phòng giam đã mở phía bên trái. Một cơn gió hú trút xuống hành lang. Tay cô nắm lấy mép cánh cửa khi sàn tàu nghiêng dần xuống. Cô gào lên khi trọng lượng toàn thân dồn lên hai cánh tay. Những mảnh vỡ trôi vụt qua. Phía cuối hành lang giờ không còn gì ngoài ánh sáng của các ngôi sao và ngọn lửa đang cháy. Trong một giây, cô nhìn chằm chằm vào nó, không rời mắt.

Cô có thể nhìn thấy quả cầu màu xanh lam nhạt của một hành tinh đang treo giữa một cánh đồng sao. Những hình thù lấp ló trong bóng tối, ánh sáng hắt lại từ trên thân và mũi tàu cũng như các ngọn tháp void-stations. Nó thật đẹp, một hình ảnh thật thanh bình và cũng thật đáng sợ. Một ngọn lửa phụt lên ngang tầm mắt cô kéo theo những vụ nổ bùng lên khắp nơi. Những dòng lửa và năng lượng đan xen vào nhau lấp đầy khoảng không. Một mảnh vỡ bay ngang qua, che khuất hình ảnh của hành tinh và các ngôi sao mà cô vừa ngắm nhìn. Bụi rải vào không gian từ những khối kim loại nhàu nát.

‘Không’, một ý nghĩ đó vụt qua tâm trí Mersadie. Đó không phải là bụi. Đó là những con người.

Một cánh cửa chống cháy khẩn cấp sập xuống che đi lỗ thủng. Tiếng hú của không khí từ con tàu đang thoát ra ngoài ngưng lại. Đèn báo hiệu màu đỏ vẫn đang nhấp nháy theo từng nhịp ngắt quãng. Còi báo động giờ đã im bặt. Từng đám tro tàn trôi nổi lướt qua nơi Mersadie đang treo lơ lửng, vẽ lên một bức tranh trong khung cảnh máu từ những cánh cửa phòng giam dọc hành lang mở toang đang rơi xuống như mưa trên bức tường. Mersadie đột nhiên có thể nghe thấy tiếng thở gấp gáp của chính mình. Trọng lực xuất hiện trở lại kéo khu vực hành lang xoay về vị trí gần giống lúc đầu. Cô xoay xở để đứng thẳng lên sau khi nửa thân dưới đập xuống sàn.

Sự yên tĩnh đột ngột xung quanh làm cô cảm thấy còn tồi tệ hơn tiếng ồn mà nó thay thế – như thể cô đang bị chìm xuống nước và chỉ còn đợi không khí trong phổi cạn kiệt.

‘Giúp tôi với!’ Tiếng hét vang lên lần nữa, lớn hơn, dội vào bề mặt kim loại. Cô nhìn xung quanh. ‘Đây! Ở đây!’

Cô đã nhìn thấy nơi tiếng kêu phát ra – một con mắt đang áp vào lỗ hở trên cánh cửa một phòng giam bị đóng kín.

‘Hãy đưa tôi ra khỏi đây!’.

Cô nhìn sang chỗ khác, hướng về phía bên kia của dãy hàng lang bị khóa kín. Đầu óc cô đang quay cuồng.

‘Nghe này, cô phải giúp tôi tôi khỏi đây,’ giọng nói lại vang lên, the thé tràn đầy hoảng sợ. ‘Con tàu đang bị tách dần ra. Bất cứ chút không khí nào còn lại mà chúng ta đang có sẽ không tồn tại lâu nữa đâu. ‘

Mersadie nhìn vào cửa phòng giam. Đó là một khối kim loại có viền rỉ sét. Ổ khóa bên cạnh là những lỗ hổng hình tròn có răng cửa.

‘Hãy tìm trên người một tên trong số các lính gác đã chết,’ giọng nói hướng dẫn, như thể đọc được sự lưỡng lự của cô. ‘Chìa khóa ở trên xác một tên nào đó trong số những thằng khốn nạn đang nằm ở đây. Nó có hình dạng giống như những cái huy chương và thường được chúng đeo quanh cổ’

Mersadie vẫn đứng im.

‘Anh là ai?’ – cô hỏi, bắt gặp ánh mắt đang nhìn qua lỗ hở.

‘Tôi là ai ư?’ giọng nói trả lời. ‘Tôi cũng giống như cô – một người đã trải qua thời gian dài bị nhốt ở đây và không muốn chết.’

Mersadie nhìn chằm chằm vào ánh mắt kia. Cho dù hiện tại cô đang ở đâu, thì Pháo đài Không tên – nơi từng là nhà tù của cô – là nơi giam giữ những con người mà vì lý do này hay lý do khác quá nguy hiểm để được trả tự do.

Một cơn rung chấn lan khắp tàu. Tiếng kim loại chà xát rồi vỡ vụn vang lên cót két. Mersadie ngước nhìn khi âm thanh đó vang lên dọc hàng lang.

‘Con tàu sẽ không trụ được lâu nữa đâu’, giọng nói vang lên. ‘Hiện tượng giảm áp gây ra bởi vụ nổ khi nãy có nghĩa là con tàu đã bị bắn trúng và đang chịu thiệt hại nghiêm trọng hoặc thậm chí nó đã bị xé ra làm đôi rồi. Những phần còn lại của nó sẽ tiếp tục bị cắt rời ra.’ Mersadie bước lùi lại khỏi cánh cửa phòng giam một bước. ‘Tôi có thể đưa cả hai chúng ta thoát ra.’

‘Bằng cách nào?’

‘Tôi biết cấu tạo của những con tàu kiểu này. Đây là một tàu vận chuyển thuộc lớp Promitor. Chúng ta đang ở trong một khoang phụ cách khoang chứa máy bay phía dưới 2 tầng. Tôi có thể đưa chúng ta đến đó. ‘ Một âm thanh của tiếng kim loại bị bẻ gãy rùng rợn khác kêu lên dọc theo lối đi. ‘Cô có muốn sống tiếp nữa không?’ Mersadie lặng yên trong một giây, sau đó cô ấy bắt đầu đi dọc hành lang đang nghiêng về một phía và tìm kiếm trong các phòng giam mở cửa.

‘Nhanh lên, nhanh lên nào!’ Giọng nói phía sau cô thúc giục.

Xác chết và những phần còn sót lại của thứ từng là một con người rải đầy các phòng giam: tay chân và thi thể dưới tác động của trọng lực chất đống ở mép dưới sàn nhà. Cô tìm thấy xác một tên lính gác bị kẹt dưới cánh cửa. Cánh cửa nặng nề đã sập xuống như một hàm răng cắn chặt khi trọng lực được khôi phục, nghiền nát và dồn những gì còn lại của tên lính vào cái khung. Cô đẩy cánh cửa ra và bắt đầu cảm thấy chiếc chìa khóa dạng huy chương quanh cổ xác chết. Mùi thịt sống nồng nặc hôi thối bốc lên trong phần không khí còn sót lại xung quanh. Mersadie cảm thấy vị đắng của dịch mật trào lên khi nước bọt chảy đầy trong miệng và cố gắng giữ mình không nôn tại chỗ. Những vết sẹo gây ra bởi đường đạn nhắm thẳng từ khẩu súng đánh dấu lên bức tường phòng giam cùng thi thể một tù nhân khác nằm sõng soài gần đó.

Cô dừng lại, những sự thật cô nhìn thấy chồng lên nhau hình thành kết luận trong đầu cô. Các lính gác đã đi xuống các phòng giam và hành quyết các tù nhân khi con tàu bị tấn công. Họ muốn đảm bảo rằng không một ai có thể thoát ra ngoài và không một ai rơi vào tay… kẻ thù.

‘Còn bao lâu nữa trước khi Horus đến?’.

‘Hắn đã ở đây rồi.’

‘Nhanh hơn, nhanh hơn nữa!’ giọng nói vọng xuống hành lang. Những bức tường đang nứt ra. Một đường ống bục vỡ bên dưới sàn làm hơi nước cuồn cuộn tràn vào. Tay cô tìm thấy chiếc chìa khóa trên một sợi dây xích bằng plasteel, cô vặn nó ra và chạy trở lại cánh cửa phòng giam đang đóng. Chiếc chìa khóa có các cạnh hình bánh răng, nhớp nháp máu. ‘Coi nào, cố lên!’ Cô tra chìa vào ổ rồi xoay nó. Cánh cửa bật mở ra sau một tiếng đập mạnh của chốt và các piston. ‘Đúng đúng đúng rồi!’

Một bóng người bước qua cánh cửa khi nó mở rộng ra. Anh ta cao, rất cao và gầy đét, làn da màu trắng xám như được kéo căng qua bộ khung xương, còn bộ jumpsuit bên ngoài như đang treo lơ lửng trên 1 cái mắc áo. Mersadie nhìn lên khuôn mặt anh và chết điếng. Một dải kim loại cố định bằng đinh tán bao quanh hộp sọ, giữ một cái đĩa sắt dày trên trán anh ta.

‘Anh là một người đột biến, một navigator…” cô thì thào.

‘Cô quan sát tốt đấy,’ anh chàng lên tiếng và liếc nhìn xung quanh khi một đợt chấn động mới làm rung chuyển sàn tàu. Anh rít lên một tiếng và bắt đầu nửa chạy nửa nhảy với những bước sải dài. Mersadie chạy theo sau.

Hành lang đột ngột nghiêng xuống và xoắn lại, họ va vào một bức tường khi vừa đến trước một cửa sập đóng kín chắn ngang lối đi dẫn xuống phần bên dưới.

‘Hệ thống trọng lực đang bị lỗi,’ người navigator lên tiếng. Mersadie đứng dậy trước khi với tay đỡ lấy người bạn đồng hành. Cánh tay anh nhỏ đến mức gần như bị bẻ gãy khi cô ghì chặt chúng. ‘Sự sụp đổ của toàn bộ cấu trúc sẽ không còn lâu nữa đâu.’

‘Chúng ta còn cách khoang chứa máy bay bao xa?’ Mersadie hỏi, cảm thấy đầu óc đang quay cuồng.

‘Có thể là 10 phút,’ người hoa tiêu đáp, cố gắng đứng lên. ‘Nếu nó thực sự nằm ở đó.’

‘Anh đã nói -‘

‘Tôi đã nói rằng tôi biết cấu trúc của con tàu. NẾU cục sắt khổng lồ đang chết dần này được bố trí theo cách tiêu chuẩn và NẾU các sàn bên dưới khoang này đang không chìm trong biển lửa hoặc đã bị nung chảy thành xỉ kim loại, THÌ nhất định sẽ có một cái thang máy thẳng đứng nằm sau cánh cửa này, cách chúng ta một vài ngã rẽ. ‘

Mersadie cắm chiếc chìa khóa vào ổ khóa cửa sập và hy vọng rằng bất cứ vận may nào đã tìm đến cô cho đến lúc này sẽ tiếp tục mỉm cười với cô lần nữa.

Đèn báo màu xanh lục nhấy nháy trên bảng điều khiển nhưng vụt tắt ngay khi cánh cửa hé mở. Mersadie cố gắng đẩy mạnh và cảm thấy mô tơ trợ lực phần bản lề đã hết năng lượng. Chỉ một khe hẹp được mở ra. Cô lách qua, navigator theo sau.

Ánh đèn khẩn cấp màu vàng mờ mờ lấp đầy lối đi rộng lớn phía trước. Mersadie có thể ngửi thấy mùi khói và mùi plasteel cháy khét. Cô tiến về phía trước, cùng nhịp với những bước chạy của anh ta. ‘Tất nhiên, tôi khá chắc rằng sẽ không có thứ gì cố giết chúng ta trong suốt quãng đường từ đây đến đó đâu,’ anh nói.

Tiếng súng vang lên từ bóng tối trước mặt. Mersadie lập tức núp sau góc tường, cố trấn tĩnh khi một hình dạng đột ngột hiện ra trong tầm nhìn, ghì sát sàn tàu là những chân nhện kim loại với một khẩu súng được gắn trên lưng. Những luồng las-fire bùng cháy khi thứ đó tiến về phía trước. Sau lưng cô, anh chàng đột biến đang co quắp dựa vào bức tường, hai tay áp vào tai.

‘Đó có phải là cái thang máy không?’ Mersadie hét lên. Phía cuối hành lang, cách mười lăm bước chân, cô có thể nhìn thấy một cái hốc đánh dấu hình chữ V, nó nằm trong một ngã rẽ rộng, chính giữa họ và con nhện máy.

‘Đúng là chỗ đó, nhưng–’

Cô chạy, cúi thấp người và nhắm đến ngã rẽ dẫn vào thang máy. Tia laser nổ tung dọc sàn tàu sau lưng cô. Cô tới nơi vừa kịp lúc và lao cả thân mình vào bên trong. Sàn thang máy lắc lư dưới sức nặng của cô.

‘Cố lên, chạy đi!’ cô quay lại, hét vào người navigator. Con nhện máy đã đuổi kịp, khẩu súng của nó đang điều chỉnh để có thể nhắm bắn trực tiếp vào cô. Người hoa tiêu ngước nhìn lên và chạy nước rút về phía ngã rẽ, hai tay vẫn giữ chặt tai. Con nhện máy xoay khẩu súng của nó lại và bắn. Những vụ nổ laser để lại từng mảng cháy sáng rực trên tường. Mersadie nhét chiếc chìa khóa vào bộ điều khiển cửa thang máy, hy vọng nó vẫn còn đủ điện để hoạt động. Sàn thang máy dưới chân cô lảo đảo và bắt đầu trượt xuống dưới. Người hoa tiêu gào lên một tiếng, bật dậy và tiếp tục chạy hết sức về phía cửa thang máy đang mở. Tia laser kêu xèo xèo xung quanh anh khi con nhện máy vội vã đuổi theo phía sau, bắn điên cuồng. Anh rơi xuống bên cạnh cô, trên cái thang máy đang hoạt động, kêu lên đầy đau đớn khi tiếp đất.

Con nhện máy vẫn kịp lao vào khoảng trống còn sót lại phía trên, khẩu súng của nó chỉa thẳng xuống chuẩn bị nhả đạn, ngay lúc đó trần thang máy đã hạ xuống, kẹp chặt và nghiền nát nó. Thứ gì đó bên trong cơ thể nó phát nổ. Những mảnh kim loại và cao su trút xuống Mersadie như mưa.

‘Bất cứ điều may mắn nào cô mang theo bên mình dường như vẫn còn tác dụng đấy,’ navigator cười vang.

‘Nếu có tàu ở đó, anh có thể lái nó không?’ Mersadie hỏi khi cô ấy thở hổn hển.

‘Có,’ Người hoa tiêu nói, ‘Tôi có thể.’

Mersadie ho, cố gắng nuốt từng ngụm không khí khi cái thang máy lao xuống trong bóng tối. Thỉnh thoảng, cô cảm thấy bộ khung của chiếc tàu rung mạnh và rên rỉ khi kim loại bị kéo căng ra.

Con tàu đã ở đó khi họ đến được tầng đáy. Thực tế tại đây có đến 3 con tàu loại shuttle, chúng có màu đỏ và đen, hai cánh hướng về phía trước, đang nằm im lặng trong các bệ phóng phía trên khoang chứa máy bay. Khung cảnh xung quanh giống như vừa trải qua một trận tàn sát. Những servitor bị cắt thành từng mảnh văng khắp nơi, họ bị đống máy móc văng trong không gian nghiền nát và giờ đây nằm lẫn lộn trong một đống hỗn loạn. Mùi nhiên liệu nồng nặc trộn lẫn mùi máu bốc lên, chân Mersadie giẫm vào một vũng promethium văng tung tóe khi họ chạy về phía những chiếc máy bay còn lại.

‘Không …’ người navigator rít lên, liếc nhìn chiếc tàu đầu tiên, rồi tiếp tục. ‘Không…’

Anh lao đến chiếc cuối cùng, khịt mũi sốt ruột, nhập một ký tự rune vào bệ phóng và kéo mình leo lên cửa vào. Mersadie theo sau. Anh ta đã tự buộc mình vào ghế lái, lầm bầm và nhấn các nút điều khiển.

‘Tôi sẽ cần sự cô giúp,’ anh nói, mắt di chuyển qua bảng điều khiển, khi Mersadie buộc mình vào chiếc ghế thứ hai.

‘Anh cần tôi làm gì?’

‘Đặt tay lên cần điều khiển và giữ cho con tàu ổn định,’ anh nói trong khi ngón tay di chuyển trên các nút và mặt số như đang chơi nhạc.

Chiếc tàu lắc lư và bắt đầu kêu lên. Tiếng động cơ to dần.

‘Tôi không biết nó sẽ mang chúng ta đi được bao xa’, anh nói, ‘nhưng dựa vào vận may mà chúng ta đang có đến lúc này thì … Nào, hãy ngồi vững’

Mersadie không trả lời. Sự kiệt sức bắt đầu ập xuống cô như một nhát búa. Đầu cô đau nhói.

‘Nilus,’ anh nói.

Cô ngước lên.

‘Tên tôi là Nilus,’ anh lặp lại và nở một nụ cười. ‘Nilus của House Yeshar.’

Anh nhập vào 1 câu lệnh. Các cánh cửa dẫn đến khoảng không bên ngoài rung chuyển, run rẩy khi hệ thống cố gắng thực thi trong tình trạng thiếu năng lượng. Một khe hở xuất hiện, mở rộng ta từ từ rồi đột ngột dừng lại. Không khí bên trong khoang chứa bị rút cạn, làm rung chuyển con tàu trên bệ phóng.

‘Mersadie,’ cô nói, mắt dán vào cửa. ‘Tôi là Mersadie Oliton.’

Nilus nhe răng cười toe toét. ‘Chà, Mersadie Oliton, tôi không chắc thứ này có thể chui vừa khoảng trống đó, nên tôi đã bắt đầu phần giới thiệu về bản thân vội vã như thế’. Động cơ của con tàu gầm lên mạnh mẽ, làm phần nhiên liệu đang chảy tràn trên sàn bắt lửa, đốt cháy phần không khí cuối cùng còn sót lại. Ngọn lửa vụt bao phủ con tàu rồi thoát ra ngoài không gian qua cánh cửa đang mở. Mersadie nhận ra tay mình đang nắm chặt cần điều khiển.

Bệ phóng khai hỏa và chiếc tàu con thoi bắn về phía trước, xuyên qua khe hở, thân tàu gần như va vào các cánh cửa. Phía sau họ, phần đuôi con tàu khổng lồ từng là nhà tù của họ bị xé toạc, nghiền nát rồi rơi xuống xuyên qua đám mây mảnh vụn của chính nó.

Trọng lực đập xuyên qua người cô, rút cạn máu từ đôi mắt, buộc cô hít thở hổn hển một cách cố gắng. Cô nhìn thấy một hình ảnh rút gọn về những ngôi sao bị vấy bẩn và những đốm lửa trắng. Nilus vẫn tỉnh táo, bàn tay có ngón dài của anh ta khóa chặt trên bàn điều khiển.

‘Tạ ơn dòng máu ngọt ngào từ các bậc tổ tiên …’ anh thở phào. Và rồi thế giới trở nên tối đen và cô có thể cảm thấy khoảng không rực lửa chìa tay ra chào đón họ.

CHƯƠNG 4

Thiên đường rực cháy

Những người tù nhân

Con chim ưng và cái lồng

Trạm không gian habitat Cordelia, quỹ đạo cao Uranus

Luồng plasma xẹt qua, gõ nhẹ lên khung kính hình vòm của đài quan sát, chạm vào trụ neo kế bên chiếc Antius và cắt rời nó khỏi khu neo đậu trong một ngọn lửa bùng lên lặng lẽ. Một khối đá và kim loại dài hàng km trong hình dạng một cánh tay bị tách rời khỏi sân ga và bắt đầu đổ nhào ra xa, rải các mảnh vụn nóng chảy vào không gian. Những con tàu nằm trong bến thuộc khu vực trụ neo vừa bị cắt đứt bị kéo rơi theo cùng với nó. Một con tàu cố gắng nổ máy để thoát ra trong tuyệt vọng nhưng đổi lại là lớp vỏ bị lột khỏi thân tàu. Con tàu bay vào khoảng không vô định, xoay tròn, các bộ phận bị tách ra, lấp lánh phản chiếu ánh sáng của hành tinh bên dưới. Một làn sóng các mảnh vụn siêu nhỏ nổ tung đập vào chiếc Antius một giây sau đó. Dây neo nối với thân tàu kêu lên như thể con tàu là một mái nhà bằng thiếc đang xiêu vẹo trong một trận mưa đá.

Cadmus Vek nhìn thấy các vết nứt lan rộng trên mái vòm khi những mảnh vỡ sắc nhọn găm vào nó. Con tàu đang rung lên trong bãi neo của nó.

‘Nới lỏng dây neo ra!’ anh ta hét lên.

‘Chúng ta phải đợi thuyền trưởng,’ Koln – phó chỉ huy con tàu đáp lại. ‘Cô ấy còn đang ở trên bến chính.’

‘Kể từ lúc này cô là thuyền trưởng của con tàu – giờ hãy đưa chúng ta thoát khỏi nơi này!’ Vek tiếp tục hét.

‘Nhưng -‘

‘Ngay bây giờ!’

Koln do dự. Khuôn mặt cô trở nên tái nhợt, đôi mắt mở to vì hoảng sợ. Một số thành viên phi hành đoàn xung quanh cô chợt ngừng lại; thậm chí một vài người trông giống như sắp chạy đến những cánh cửa trên cầu tàu.

‘Không, tôi không thể,’ Koln yếu ớt nói ‘Còn thuyền trưởng-‘

Vek rút khẩu súng lục dưới áo choàng ra. Đó là một khẩu súng lục nhỏ nhưng anh cảm thấy nó thật nặng và lạ lùng khi cầm trên tay. Koln nhìn chằm chằm vào khẩu súng khi anh giơ nó lên hướng thẳng vào Koln. Cô há hốc miệng vì sốc.

‘Khởi hành ngay,’ Vek nói. Anh thấy sự tức giận nhuộm đỏ khuôn mặt phó chỉ huy.

Một thứ gì đó khổng lồ vừa phát nổ trong một đám bụi sao màu xanh và trắng ngoài không gian phía trên mái vòm. Koln lưỡng lự rồi gật đầu.

‘Tất cả các bộ phận, hãy chuẩn bị sẵn sàng để rời bến. Bắt đầu đếm ngược’.

‘Có nhiều người vẫn đang chạy băng qua bến tàu hướng đến chúng ta’. Một trong những sĩ quan phụ tá báo cáo.

‘Khởi động hệ thống còi báo ngắt kết nối’, Koln ra lệnh, ‘Họ sẽ phải chạy đủ nhanh nếu họ muốn sống.’

Vek có thể thấy sự tức giận đang tăng dần trong Koln khi cô ra lệnh. Cô sẽ không bao giờ tha thứ cho anh vì những điều cô đang làm. Một ngày nào đó, nếu có đủ can đảm, cô có thể sẽ cố giết anh vì điều này. Nhưng nếu họ còn sống sau năm phút kế tiếp, anh nghĩ mình có thể chấp nhận rủi ro ấy.

‘Năng lượng lò phản ứng đạt đến 60%,’ Chi-32-Beta báo cáo. Trong số tất cả các thuyền viên, người thợ máy dường như ít quan tâm nhất đến những sự kiện đang diễn ra xung quanh. Khom người và khoác trên mình chiếc áo choàng loang lổ, bẩn thỉu màu đỏ và trắng, cô di chuyển giữa các hệ thống trên cầu tàu như thể trên đời không có gì vội vàng. Những thành viên còn lại đang chen lấn nhau dùng dây buộc bản thân vào vị trí của họ, la hét các mệnh lệnh hoặc câu hỏi.

‘Tất cả các hệ thống xác nhận sẵn sàng cất cánh’, Koln nói. Đáp lại cô là những câu trả lời liên tục vang lên một cách ồn ào, len lỏi tìm lối thoát trong mớ hỗn độn xung quanh.

‘Động cơ, sẵn sàng!’

‘Khoang lái, sẵn sàng!’

‘Máy quét, sẵn sàng!’

Từng bộ phận của con tàu được đặt vào trạng thái sẵn sàng. Thân tàu lúc này đang rung lên khi những cỗ máy lạnh ngắt trong lõi thức giấc. Chiếc Antius là một tàu không gian cỡ nhỏ, chiều dài từ mũi tàu đến phần đuôi khoảng cỡ một phần ba kilomet. Phần lớn khung và vỏ tàu được tận dụng từ một xác tàu trôi dạt và được sửa chữa bởi những người thợ lành nghề mà giờ đã chết, bị lãng quên từ lâu. Tốc độ của nó không nhanh không chậm, nhưng cách nó di chuyển thật đáng tin cậy trong các chuyến hành trình vận chuyển công nhân và mỏ quặng giữa các mặt trăng của Uranus và vành đai thiên thạch xung quanh trong hàng thế kỷ. Nó đã chiến đấu chống lại bọn hải tặc và sống sót trong một cuộc xâm lược mà sau này đã được đổi tên gọi theo ‘một định nghĩa đúng đắn hơn’. Và bây giờ, Vek hy vọng rằng con tàu sẽ đủ sức chứng minh mình là kẻ sống sót một lần nữa.

Koln quay lại.

‘Vẫn có những người đang chạy dọc theo bến tàu về phía này. Chúng ta không thể khởi hành được. ‘

‘Ra lệnh đi,’ Vek cáu kỉnh.

  • Và nếu Ngài thực sự có thể lắng nghe, con xin Ngài, Chúa tể và Chủ nhân của nhân loại + anh lẩm bẩm trong suy nghĩ của mình + Xin Ngài hãy rủ lòng thương xót con vì tất cả những điều này +

Mồ hôi lấm tấm trên đôi má hõm sâu của Koln và đọng lại trên cằm cô.

‘Hãy đóng kín tất cả các cửa ra vào và cửa sập’, cô ra lệnh. Ánh đèn nhấp nháy trên bảng điều khiển. Sự yên tĩnh rơi ngang qua cầu tàu đột ngột như nhát chím của một chiếc rìu. Một sĩ quan cấp dưới ngước nhìn Koln và gật đầu. ‘Mở khóa dàn giữ tàu, thả neo rời bến.’

Koln quay nhìn lại Vek, ngọn lửa đang cháy rực trong ánh mắt cô một lần nữa, đôi môi cô co rụt lại sau hàm răng chuẩn bị thốt ra điều gì đó.

Một tia sáng lóe lên trong mắt Vek. Anh bắt đầu ngước nhìn lên mái vòm trên đỉnh cầu tàu. Một thứ gì đó khổng lồ đang di chuyển ngang qua vầng sáng bao quanh Uranus

Anh nhận ra đó là gì.

Anh mở miệng hét lên…

Ánh sáng trắng bùng lên…

Quá sáng, nó nuốt chửng mọi cảm giác và âm thanh…

Vek bị mù trong giây lát…

Thở hổn hển…

Sàn kim loại đập vào dưới bàn tay và đầu gối của anh.

Tiếp theo là một tiếng gầm, những tiếng la hét vang lên bên tai Vek khi anh cố đứng dậy, những vệt màu neon bơi lởn vởn trước mắt anh.

‘Dồn toàn bộ năng lượng cho động cơ!’ Koln hét lên. Cô đang bám vào đài điều khiển của mình, khuôn mặt chết điếng. Một cái gì đó va vào con tàu làm boong tàu rung lên. Phía ngoài đài quan sát, không gian đang bốc cháy.

Trạm không gian Cordelia Habitat đã biến mất. Những mảnh vỡ cưỡi trên một làn sóng hủy diệt lặng lẽ, xoay tròn như những mảnh đá vụn vỡ. Vek có thể nhận ra hình dạng còn sót lại của các cụm nhà ở và những đường kẻ dài của một bến tàu với những con tàu vẫn đang khóa neo tại đó, thân tàu bị đâm thủng, nhiên liệu và không khí kéo thành vệt phía sau. Chiếc Antius chao đảo thay đổi khung nhìn và anh nhìn thấy những vệt sáng cắt ngang qua các vì sao, nhấp nháy như màu sắc của những món đồ trang sức – topaz lộng lẫy, ruby rực lửa, sapphire lạnh lùng. Kế đó, những con tàu di chuyển ngang qua tầm nhìn của anh, chúng quá to lớn hoặc chúng quá gần đến mức anh có thể nhìn thấy những đường viền lởm chởm bao quanh bằng mắt thường…

Đó là hàng trăm ngườitrong số họ…

Đó là hàng ngàn ngườitrong số họ.

Nó thật đẹp …. gần như …

Con tàu nhanh chóng tiến lên phía trước. Các tấm kim loại lỗ chỗ bắt đầu đóng sầm lại che khuất tầm nhìn. Koln đang hét lên những mệnh lệnh.

‘Hạ độ cao nhanh nhất có thể, sau đó tắt toàn bộ nguồn năng lượng’

‘Nếu làm vậy, chúng ta sẽ mất khả năng cơ động’, một trong những sĩ quan đáp. ‘Chúng tôi sẽ không thể đến –’

‘Vậy anh muốn chúng ta trông giống như một mối đe dọa đối với bất cứ thứ gì ngoài kia vừa nấu chín toàn bộ trạm không gian sao?’ Koln hét lên. ‘Hãy tuân theo mệnh lệnh của anh hoặc hoặc anh có thể đi và gia nhập nhóm những người mà chúng ta đã bỏ lại đằng sau’

Những người mà chúng ta đã bỏ lại phía sau…

Vek nhận ra anh vẫn đang cầm khẩu súng lục trên tay. Anh hạ nó xuống. Anh đang run rẩy.

‘Thưa ngài.’ Giọng nói trầm, the thé vừa đủ để thu hút sự chú ý từ anh chứ không ai khác. Vek ngước lên. Aksinya đang đứng sát cạnh vai anh. Anh cảm thấy một làn sóng nhẹ nhõm lan tỏa khi nhìn thấy một sự sống cạnh mình.

Aksinya đã phục vụ mẹ anh trước anh và phục vụ cả bà của anh trước đó. Cô rất cao, dánh vẻ mảnh khảnh yếu ớt đặc trưng của những người được sinh ra trong không gian (void-born), như kiểu cô có thể vỡ ra khi bị chạm vào, một ấn tượng càng rõ hơn bởi những dấu hiệu tuổi tác của cô. Làn da màu xám tro dính sát vào đôi tay chân gầy giơ xương, loang lổ những đốm sẫm màu. Cô đội một bộ tóc giả bằng sợi carbon và đang giữ bản thân đứng thẳng một cách cứng nhắc. Chiếc áo khoác dài màu đen xám bằng sợi tổng hợp dệt theo kiểu mắc lưới cùng đường viền trắng bên dưới tay cổ tay và cổ áo làm cô trông giống như một gia sư của giới quý tộc hoặc một người đàn bà trong hội góa phụ nhưng ấn tượng đó là hết sức sai lầm. Cô đã già, đúng, nhưng Vek đã thấy cô ấy di chuyển nhanh đến mức biến mất chỉ trong một cái chớp mắt và đập vỡ tấm plasteel bằng một cú đấm từ bàn tay đang mở ra của cô ấy.

Anh bắt gặp hình ảnh phản chiếu của mình trong ống kính quang học được cấy ghép của Aksinya: một người đàn ông béo mập, khoác trên mình chiếc áo choàng bằng lụa và gấm dày, làn da ngăm đen đẫm mồ hôi, một khẩu súng mà anh không chắc là biết sử dụng đang treo trên tay. Sự tương phản với người phụ nữ đã bảo vệ gia đình anh rõ ràng đến mức có thể khiến anh bật cười.

‘Chúng vẫn an toàn chứ?’ Vek hỏi.

‘Chúng ở trong khoang của thuyền trưởng với Nikal và Coba đang đứng gác. Có thể là quá nhiều khi hy vọng rằng chúng đã ngủ, nhưng ít nhất chúng cũng đang giữ yên lặng.’ Aksinya khẽ mỉm cười làm làn da nhăn nheo trên khuôn mặt cô hằn lên bên dưới cặp tròng đen của đôi mắt. ‘Ồ, phải chi tất cả chúng ta đều tràn đầy năng lượng như những đứa trẻ.’

‘Cảm ơn, Aksinya,’ anh nói và nghe thấy tiếng nứt vỡ vang lên trong giọng nói của mình. ‘Vì tất cả.’

Aksinya lắc đầu nhẹ, vẫn mỉm cười.

‘Đó là cuộc sống và bổn phận của tôi, thưa ngài.’

Anh gật đầu, không biết phải nói gì. Aksinya là lý do giúp anh, con gái và con trai anh còn sống. Chính cô ấy là người đã nghe được những cảnh báo về các mối đe dọa trên kênh liên lạc của đài chỉ huy trạm không gian trước khi còi báo động được kích hoạt. Điều đó đã cho họ đủ thời gian để cảnh báo chiếc Antius và chạy đến bến tàu. Vừa đủ…

‘Có bao nhiêu…’ anh bắt đầu nói, đôi mắt liếc nhìn khẩu súng trên tay.

‘Khoảng một nghìn người đã kịp lên tàu.’ Aksinya trả lời câu hỏi mà Vek chưa kịp hoàn thành, ‘Hầu hết bọn họ đang ở các khoang chứa hàng. Tôi đã tự mình kiểm tra chắc chắc rằng các vách ngăn nối đến phần còn lại của con tàu đã được đóng kín. Hiện tại họ đang bị sốc, nhưng điều đó sẽ không kéo dài. Trạng thái sốc và đau buồn có thể chuyển thành tức giận khi họ bị nhấn chìm trở lại vào thực tế. ‘

Vek gật đầu. Nhiều người đã tràn về phía bến tàu khi còi báo động kêu lên, bị điều khiển bởi cơn sợ hãi nguyên thủy. Anh có thể nhớ, nhiều năm trước, khi tin tức về cuộc nổi dậy của Warmaster chống lại Hoàng đế lan đến đây. Đã xảy ra các cuộc bạo loạn. Lực lượng thực thi hòa bình đã được đưa đến. Đã có nhiều người chết và bị bắt giữ. Sau đó, bàn tay của Ngài Cận Vệ đã bao phủ mọi thứ một cách vững chắc và không hề nới lỏng cho đến hiện tại. Trật tự khắt khe và những quy tắc không khoan nhượng đã ăn sâu vào họ – không thoải mái vào lúc ban đầu, nhưng dần quen thuộc sau đó. Vek đã chứng kiến một số tài sản của mình bị tịch thu, các kho quặng kim loại được trưng dụng theo sắc lệnh và hai chiếc tàu chở hàng của gia đình anh ta bị ép các làm nhiệm vụ vận chuyển cho quân đội. Những người khác còn bị áp đặt nhiều điều thiệt thòi hơn, nhưng sự khó chịu ít ra không gây thiệt hại.

Thời gian trôi qua và nỗi sợ hãi cuộc chiến sắp đến với Hệ Mặt trời đã trở thành một lời hứa không bao giờ được thực hiện. Đã có những sự cố – như mỏ quặng Ariel bị ngừng hoạt động, những lời cảnh báo và lệnh giới nghiêm cùng một làn sóng bắt giữ nhiều người xuất hiện – nhưng những lời nói dối được đưa ra để giải thích cho những hành động kia đã đủ để khiến mọi người cảm thấy một cách thoải mái rằng cuộc xung đột còn cách nơi này rất xa. Trạng thái đó, cũng giống như việc các tàu chiến đi qua quỹ đạo hành tinh, hay các cuộc kiểm tra thường xuyên và con mắt quan sát không ngừng nghỉ của nhà chức trách, đã trở thành cách mọi thứ ở đây hoạt động. Và cuộc sống vẫn tiếp diễn.

Khi Aksinya đánh thức Vek vài giờ trước và nói rằng anh và gia đình cần phải xuống tàu ngay bây giờ, anh ta đã muốn tin đó chỉ là một lời nói dối.

‘Và có bao nhiêu … bao nhiêu chiếc còn ở trong bến tàu khi chúng ta cất cánh?’ anh hỏi.

Aksinya lắc đầu. ‘Tôi không … thưa ngài…” Cô dừng lại. ‘Đó không phải là một câu hỏi khôn ngoan.’

Anh nhìn cô và định nói gì đó.

Con tàu đột bị đẩy nghiêng.

Ánh đèn nhấp nháy trên các bảng điều khiển. Chuông cảnh báo vang lên.

Vek nhìn quanh.

‘Đó là làn sóng của một vụ nổ’, Koln nói, không cần nhìn xung quanh. ‘Trạm Calis vừa phát nổ.’ Giọng cô lạnh lùng, phát ra một cách có kiểm soát. ‘Có rất nhiều dấu vết về các nguồn năng lượng và các tín hiệu khổng lồ ngoài kia. Rất nhiều…’

‘Tàu chiến ư?’ Vek hỏi.

Koln nhún vai nhưng vẫn không quay sang anh. ‘Chúng ta chỉ có các cảm biến điều hướng cơ bản – làm sao tôi biết được?’

‘Một tín hiệu đang tiến đến gần!’ một trong những sĩ quan boong hét lên.

‘Kích cỡ?’ Koln hỏi.

‘Đó là một chiếu tàu nhỏ. Nó ở rất gần. Có thể là một tàu shuttle. Thông điệp được gửi đi rất rõ ràng,’ nhân viên tín hiệu cho biết. ‘Đó là một cuộc gọi cầu cứu qua hệ thống Solar void-cant.’

‘Ngắt nó đi,’ Koln nói. ‘Chúng ta không thể –’

‘Không,’ Vek nói. Anh bị âm thanh vừa phát từ chính giọng nói của mình làm ngạc nhiên. Koln nhìn anh và anh có thể thấy cơn tức giận của Koln đang dâng lên từ cổ cô, nhuộm đỏ sắc mặt cô.

‘Họ có thể là bất cứ ai.’ Koln nói ‘Đó là một tàu quân sự. Tiếp nhận họ có thể biến chúng ta trở thành mục tiêu.’

‘Mọi thứ ở đây và ngoài kia đều đã là mục tiêu rồi,’ Vek cáu kỉnh.

‘Anh ra lệnh cho chúng tôi bỏ lại hàng nghìn người phía sau và bây giờ lại muốn chúng ta -‘

‘Vậy thì lần này chúng ta sẽ chết cùng họ,’ Vek hét lên, cơn giận dữ của chính anh dâng trào. ‘Đây là những người mà chúng ta có thể cứu.’ Anh lắc đầu, sự kiệt sức dập tắt cơn thịnh nộ nhanh như cách nó vừa bùng cháy. Koln đang quan sát anh, vẻ bối rối hiện rõ trên gương mặt cô. ‘Ít ra đây là những người mà chúng ta có thể cứu…’ Vek lặp lại, xoay đi và thả người vào một chiếc ghế trống bên cạnh bàn điều khiển.

Koln nhìn anh ta một lúc lâu rồi gật đầu.

‘Hãy trả lời cuộc gọi cứu nạn đó,’ cô ra lệnh.

Cửa sau của con tàu shuttle mở ra với một tiếng rít. Mersadie tháo dây an toàn của mình rồi ngồi im. Nilus đã rời khỏi chỗ ngồi và tiến về phía cánh cửa. Anh quay lại nhìn cô.

‘Đi thôi nào,’ anh nói. Cô vẫn không di chuyển. ‘Nhân danh tên của những vì sao, điều gì khiến cô còn ngồi đó vậy?’

Mersadie lắc đầu. Một cảm giác đột ngột tràn ngập trong cô, nhấn chìm sự nhẹ nhõm mà cô cảm thấy khi con tàu kia trả lời cuộc gọi cứu nạn của họ. Cô đã đến được đây sau khi chiếc tàu của mình bị quăng quật, xoay tròn băng qua một không gian đầy ánh sáng của những vụ nổ, trong một cuộc chạy đua dẫn đường bởi lời hứa từ một chốn tôn nghiêm trong tâm trí. Giờ đây, sự yên tĩnh đột ngột trong khoang chứa này, đằng sau những cánh cửa đóng kín ngăn cách ngọn lửa đang rực cháy ngoài không gian bằng cách nào đó còn trở nên đáng sợ hơn ánh sáng từ trận chiến và ngọn lửa hấp hối từ những con tàu sắp chết.

Nilus cau mày, biểu cảm nhăn nhó vòng quanh tấm kim loại hằn lên trán anh.

‘Chuyện gì thế?’ anh hỏi.

Cánh cửa chạm vào sàn tàu bên ngoài.

‘Bước ra ngoài!’ một câu lệnh cứng rắn vang lên. ‘Nếu các người cầm vũ khí trên tay, chúng tôi sẽ bắn. Nếu các người không tuân thủ mệnh lệnh, chúng tôi sẽ bắn.’

Mersadie hít một hơi thật sâu, giơ hai tay lên và bước ra ngoài ánh sáng.

Khoang chứa máy bay bên ngoài rất nhỏ, chỉ là một cái hộp kim loại rỉ sét vừa đủ lớn để chứa chiếc shuttle và còn chỗ trống cho nhóm người đang đợi họ. Có năm người: hai người lính trông có vẻ lo lắng trong bộ đồng phục màu xanh và bạc, quá sạch sẽ để có thể nhận ra chúng không thường được sử dụng; một người phụ nữ rất cao mặc đồ đen và xám; một người phụ nữ khác trong bộ đồng phục màu xanh da trời viền vàng và cuối cùng là một người đàn ông to lớn nặng nề với làn da bóng loáng mồ hôi, cặp lông mày màu opal gắn trên trán, bên dưới là đôi mắt đầy thận trọng. Một trong những người lính chuyển tay nắm lấy khẩu shotgun.

‘Các người là ai?’ người phụ nữ trong bộ đồng phục xanh viền vàng lên tiếng.

‘Cô là thuyền trưởng của con tàu này?’ Mersadie hỏi.

‘Chuyện này càng lúc càng có mùi sai trái rồi đấy’, người phụ nữ mặc đồng phục gầm gừ với người đàn ông to lớn chắc nịch bên cạnh.

‘Làm ơn,’ Mersadie nói. ‘Tôi cần nói chuyện với thuyền trưởng của con tàu.’

Người phụ nữ cao giơ tay ngăn lại. Cô ấy hầu như không di chuyển kể từ khi Mersadie bước ra khỏi chiếc tàu. Khuôn mặt của người phụ nữ già nua, nhưng trong ánh mắt ẩn chứa một sức mạnh và sự sắc bén khiến Mersadie nhớ đến cạnh của một thanh kiếm.

‘Chiếc shuttle đó là tàu đổ bộ thuộc lớp Corona,’ người phụ nữ cao nói một cách cẩn thận, không rời mắt khỏi họ. ‘Được bảo trì tốt và được trang bị vũ khí, nhưng không được đánh dấu. Có thể thuộc quân đội hoặc bán quân sự, nhưng hãy nhìn trang phục của cô ấy.’ Người phụ nữ chỉ một ngón tay dài về phía Mersadie. ‘Mòn, tiện dụng, không có gì bằng kim loại ngay cả trên dây buộc, các chữ và số được khâu vào cổ áo và cổ tay – đó là trang phục của tù nhân.’ Người phụ nữ cao quay lại và nhìn người đàn ông với cặp lông mày màu opal. ‘Thưa Ngài, con tàu này thuộc sở hữu của Ngài, Ngài muốn làm gì với bọn họ?’

Người đàn ông bước về phía trước. Mersadie thấy rằng anh ta trông có vẻ kiệt sức, như thể vũ trụ đã đè nặng lên vai anh ta nhiều hơn anh ta nghĩ mình có thể chịu đựng được.

‘Cô là ai?’ anh hỏi, chỉ nhìn vào Mersadie.

‘Tên tôi là Mersadie Oliton,’ cô trả lời.

‘Tại sao cô lại trở thành tù nhân, Mersadie Oliton?’

Cô nhìn anh, nghĩ về nói ra sự thật sẽ giúp được gì trong lúc này, rồi đưa ra câu trả lời duy nhất trong đầu mình.

‘Tôi không thể nói.’

‘Vậy thì cô phải tiếp tục là tù nhân trên con tàu này,’ anh ta nói và gật đầu với người phụ nữ cao lớn. Nhóm lính tiến lên phía trước.

‘Làm ơn,’ Mersadie nói, cơn hoảng sợ đột ngột dâng lên khi họ nắm chặt cánh tay cô. ‘Tôi cần đến Terra, tôi cần gặp Ngài Cận vệ.’

Viên sĩ quan mặc áo xanh viền vàng cười lớn, rồi quay đi khi quân lính xô Mersadie quỳ xuống và trói tay cô sau lưng.

Căn cứ Bhab, Hoàng cung, Terra

Su-Kassen nghe tiếng cánh cửa đóng lại sau lưng và nhắm mắt. Cô hít từng hơi thở thứ mùi đang tràn ngập trong khu phòng của mình. Sự nhẹ nhõm nhẹ nhàng len lỏi trong giây lát khi không gian yên tĩnh ở đây thay thế cho từng nhịp còi báo động bên ngoài Cung điện. Cô vẫn đứng yên, để khoảnh khắc này kéo dài khi những mùi hương quen thuộc đọng lại trong mũi: mùi khói hulkar nhè nhẹ, mùi của sàn đá lạnh và những lớp vải cũ.

Với tư cách là sĩ quan cấp cao của Bộ chỉ huy Phòng thủ Hệ Solar, Su-Kassen được quyền sở hữu một khu phức hợp rộng lớn nằm giữa những tòa tháp và hội trường rối rắm của Cung điện Hoàng gia. Cô đã từ chối việc ở trong một khu vực như vậy bằng cách yêu cầu một chỗ ngủ đơn giản nằm ngay trong căn cứ Bahab. Đích thân Rogal Dorn đã hỏi cô lý do tại sao.

‘Tôi đã học mọi thứ trên những con tàu chiến,’ Su-Kassen trả lời. ‘Tôi muốn nghỉ ngơi tại nơi tôi chiến đấu.’

Dorn gật đầu, không mỉm cười, nhưng một giờ sau yêu cầu của cô đã được thực hiện.

Căn cứ Bhab trông như bị mắc kẹt giữa phần kiến trúc to lớn còn lại của Cung điện Hoàng gia như gốc một cái cây khổng lồ vừa bị đốn hạ. Khu căn cứ có chiều rộng nửa cây số, nằm ở phần rìa một khối đá nguyên khai. Nó đã được xây dựng khi xung quanh còn là một vùng đất hoang. Trong nhiều thập kỷ, nó dần trở nên bất khả xâm phạm khi các bộ phận của Cung điện Hoàng gia mọc lên xung quanh, thay thế sự hoang tàn mà nó đã canh gác qua nhiều năm bằng những hàng cột, mái vòm và những ngọn tháp có đỉnh được tạc thành những bức tượng. Đã có nhiều tin đồn về việc khu căn cứ vẫn đứng vững, bất chấp nhiều nỗ lực san phẳng nó của lực lượng công binh bằng các vụ nổ ngày càng lớn, dường như chạm tới tận thế, cho đến khi Người Mang Ấn ra lệnh để mặc nó đứng tại chỗ. Giờ đây, với những tổ hợp bệ súng quây kín các mái Cung điện cùng những tấm void shield lấp lánh phía trên những tòa tháp bọc giáp, sự thách thức của căn cứ Bhab dường như không còn là một lời nhắc nhở xấu xí về quá khứ mà đã trở thành một lời cảnh báo cho tương lai. Khi Rogal Dorn bắt đầu quá trình củng cố Cung điện sau hành động phản bội của Horus, anh đã biến căn cứ Bhab thành trung tâm chỉ huy của mình. Và trong nửa thập kỷ qua, khu buồng gồm một cụm ba căn phòng nhỏ nằm ở vị trí một phần ba hành lang hướng lên phía bắc của căn cứ đã trở thành nhà của Su-Kassen.

Ngủ. Nhân danh tất cả cơn bão của Jupiter, Su-Kassen cần phải ngủ.

Một tiếng kêu tanh tách lặng lẽ vang lên chạy dọc theo da cô cùng mùi khét của bụi và những cục pin storm bị đốt cháy thế chỗ cho mùi khói hulkar. Ngoài kia lại đang tiến hành các thử nghiệm bắn đạn thật vào lớp void shield thứ ba của khu căn cứ.

Cô mở mắt ra và bắt gặp sự u ám trong căn phòng chính. Cô chớp mắt, treo chiếc áo đồng phục khoác ngoài của mình lên cái móc sắt trên tường mà không cần nhìn. Một đôi mắt tròn sáng hiện ra ở đầu kia của căn phòng khi Kelik thức dậy. Tiếng nó cào móng lên sàn lồng kêu lách cách xua tan sự yên tĩnh xung quanh. Su-Kassen mỉm cười và đi về phía trước, đeo vào chiếc găng tay huấn luyện đang đặt trên một chiếc bàn thấp.

‘Yên nào,’ cô nói. ‘Bây giờ vẫn đang là ban ngày, chưa đến lúc ngươi đi săn đâu.’ Con chim ưng xoay đầu lại kêu lên một tiếng uể oải khi Su-Kassen mở cửa lồng. Kelik nhìn cô một lúc rồi nhảy lên cánh tay cô ấy, không thèm đậu vào cái găng mà leo thẳng lên vai. Móng vuốt của nó bám sâu vào lớp áo được dệt chống đạn làm cô nhăn mặt. Nó nhìn cô, chớp mắt một cái thật chậm rãi, tỏ vẻ khinh thường. Su-Kassen cười lớn và bước tới bật vòi đun. Nước bắt đầu sôi sủi bọt khi cô đi quanh phòng.

Một chiếc bàn thấp bằng gỗ tuyết tùng cổ xưa đặt ở chính giữa căn phòng giữa hai tấm đệm sàn cũ nát. Một thanh power sabre (sabre là kiếm lưỡi cong của kỵ binh) có nguồn gốc từ Saturn treo trên tường phía trên một chiếc hộp khung bằng đồng chứa một trong hai khẩu súng lục mà Su-Kassen lấy được từ một tên thuyền trưởng tàu cướp biển trôi dạt trong một lần hành động trên chiếc tàu đầu tiên của cô – rất lâu về trước.

Cô biết mình nên đi ngủ. Cô chỉ có hai giờ trước khi trở lại đài điều khiển, nhưng cô cũng biết mình sẽ không thể ngủ được, thêm vào đó, cô cảm thấy được nghỉ ngơi nhiều hơn khi đắm mình trong những khoảng khắc thực tại trần tục ngắn ngủi bây giờ hơn là trong những giấc mơ sẽ đến trong giấc ngủ.

Cô đang pha một tách trà cay thì Kelik bỗng tỏ ra nao núng trên vai cô, nó đột nhiên ngẩng đầu lên, mắt mở trừng trừng dán chặt vào cánh cửa. Tiếng gõ cửa vang lên một giây sau đó. Su-Kassen sững người trong một giây.

Ai có thể đến tìm cô ở đây? Nếu là báo động hoặc một chuyện gì đột biến vừa xảy ra thì nó phải được thông báo theo các thủ tục định sẵn, qua các tín hiệu, nhưng hộp vox trên tường vẫn im lặng. Cô nhấc khẩu súng lục ra khỏi hộp, nạp đạn và kéo lãy khóa một cách thuần thục. Căn cứ được bảo vệ bởi lính gác bố trí khắp nơi cùng các màn hình an ninh và những chiến binh thuộc lực lượng tùy tùng Huscarl của Dorn. Nhưng có điều gì đó cảm giác như từng mũi băng đâm vào da thịt và cô đã suýt chết đủ nhiều để không bao giờ bỏ qua thứ cảm giác cảnh báo này.

‘Tự khai báo danh tính đi’, cô ra lệnh, đồng thời nâng khẩu súng lên nhắm vào cánh cửa đang đóng.

‘Một người cần lời khuyên của cô,’ một giọng nói trả lời. Su-Kassen ngạc nhiên đến mức thở hắt ra. Rồi cô tự trấn tĩnh bản thân và mở khóa cửa.

‘Ta xin lỗi vì đã làm phiền sự nghỉ ngơi của cô, Đô đốc’, Jaghatai Khan nói.

‘Thưa ngài …’ Su-Kassen lên tiếng, đồng thời cúi đầu chào vị Primarch.

‘Làm ơn đi,’ Đại Hãn đáp lại, mỉm cười và cũng cúi đầu chào lại cô. ‘Sự bất lịch sự từ một vị khách không mời đã đủ là lý do để bỏ qua mọi nghi lễ chào hỏi rồi.’

‘Vừa xảy ra chuyện gì sao?’ cô hỏi, đầu óc vẫn đang quay cuồng.

‘Không có gì,’ Khan nói. ‘Ít nhất thì cũng không có gì cần đến sự hiện diện của cô vào lúc này.’ Đôi mắt ngài trông giống như những mảnh băng phản chiếu ánh sáng mặt trời. Sự hiện diện của ngài giống như một cơn gió đang thổi qua những ngọn núi rồi chạm nhẹ vào cô. Trên vai cô, Kelik khẽ kêu lên và xoay chuyển chỗ đậu của nó. Cô lắc mình và bước sang một bên.

‘Mời ngài vào,’ cô nói, cố nhớ ra những lời hiếu khách của xứ Chogorian từ trong ký ức và đột nhiên nhận ra khẩu súng lục vẫn còn trên tay cô. ‘Mời ngài vào với tư cách một người bạn của tôi.’

Vị Primarch nở một nụ cười rộng, đầy phóng khoáng.

‘Ta dễ tính lắm. Cầu mong vận may sẽ đến từ sự hào phóng của cô. ‘

Khan cúi đầu một lần nữa trước tiến lên bước qua cánh cửa đi vào phòng. Su-Kassen nhận thấy Đại Hãn bước đi từ tốn, không hề vội vã, êm ái như một con báo tuyết đang khéo léo bước đi trên sông băng. Tất cả tốc độ kinh hoàng, phi phàm của ngài đã không còn nữa, thay vào đó là sự đĩnh đạc. Khan không mặc áo giáp của mình mà khoác một chiếc áo bằng da mềm, màu đen, được lót và viền bằng lông trắng trên nhiều lớp lụa. Những con dao nạm ngọc lấp lánh treo ở thắt lưng và những chiếc nhẫn bạc vòng quanh ngón tay chạm khắc hình chim ưng và rắn. Tóc ngài óng ánh màu của dầu và những hạt bằng đồng, ngọc bích, đá mặt trăng đính trên những lọn tóc. Nhìn vị Primarch, Su-Kassen tự nhủ, ngài giống hệt như những gì người ta hay nghĩ về ngài: một lãnh chúa không hề bị thời gian thuần hóa hay bị không gian ràng buộc.

Su-Kassen bước về phía những chiếc đệm trên sàn, chạm để thắp sáng nhiều quả cầu hơn. Ánh mắt của Đại Hãn di chuyển khắp căn phòng với một cái nhìn thoáng qua mà cô chắc chắn rằng ngài đã nắm bắt được mọi chi tiết. Đôi mắt dừng lại khi cô tháo khẩu súng lục ra và đặt nó trở lại chiếc hộp bên cạnh khoảng trống của khẩu súng còn lại, chúng vốn là 1 cặp.

‘Một thứ vũ khí không hoàn chỉnh khi thiếu đi người anh em sinh đôi của nó,’ Khan nói, ngồi xuống một trong những chiếc đệm. Bằng cách nào đó ngài trông hoàn toàn thoải mái trong cái chỗ ngồi nhỏ bé ấy, trái ngược với kích thước to lớn của ngài.

‘Tôi đã tặng khẩu súng còn lại,’ cô nói trong khi mời Đại Hãn một ly trà cay.

‘Cho một chiến binh khác?’, Khan nói, nhận lấy ly và nhấp một ngụm trà.

‘Cho con gái của tôi.’

‘Tất nhiên rồi … Cô ấy đang phục vụ ở đâu?’

‘Tôi nghĩ ngài biết điều đó, thưa ngài.’

Cô nhìn Khan trong một giây. Nụ cười tắt trên môi và Đại Hãn gật đầu.

‘Thuyền trưởng Khalia Su-Kassen Hon II, lần triển khai cuối cùng được ghi nhận là sĩ quan chỉ huy tàu Thunder Break, trực thuộc Hạm đội Viễn chinh Sáu Mươi Ba dưới quyền chỉ huy của Quân đoàn XVI… Sons of Horus.’

Su-Kassen gật đầu và giữ chặt ánh mắt Khan. Suy nghĩ của cô vẫn rất tĩnh lặng.

‘Đúng vậy, thưa ngài.’

‘Tất nhiên là trước khi sự phản bội xảy ra,’ Đại Hãn bổ sung.

‘Tôi có thể phục vụ ngài như thế nào, thưa ngài?’ Cô nói, ngồi xuống đối diện với Khan.

Đại Hãn nhìn cô rồi nhìn quanh căn phòng nhỏ.

‘Cô nghi ngờ về cách mà em trai ta dự tính sẽ chiến đấu trong cuộc chiến này đúng không’

‘Tôi đã giúp vạch ra kế hoạch chiến đấu, thưa ngài. Tôi không nghi ngờ.’ Su-Kassen dừng lại.

Khan mỉm cười, nhưng ánh mắt đã chuyển đến nơi Kelik vẫn đang đậu trên vai cô. Con chim ưng kêu lên nhẹ nhàng, mở rộng đôi cánh và lướt đến cổ tay Khan. Đại Hãn cười toe toét, mắt lóe sáng khi bắt gặp ánh nhìn của con chim.

‘Một sĩ quan người Jovian nói tiếng Chogorian, nuôi một con chim ưng và uống trà cay của Terran trên bàn gỗ tuyết tùng. Cô là một điển hình kỳ lạ cho người của cô đấy, Đô Đốc. ‘

‘Có lẽ thế, nhưng những điều đó có thực sự kỳ lạ không, thưa ngài? Tôi đã lớn lên trong những con tàu, trong những trạm không gian cận quỹ đạo, trong những hành lang hay không gian bằng kim loại, nơi không có bầu trời và cây cối chỉ tồn tại trong những câu chuyện cổ tích. ‘

‘Một cái lồng,’ Khan nói, đưa một ngón tay lên và vuốt ve mào của Kelik. ‘Cô đã sống trong một cái lồng của suy nghĩ. Cô đã phá vỡ song sắt của nó và tìm thấy sự thoải mái hơn ngay lúc này khi được nhắc nhở rằng cuộc sống không phải chỉ là sắt và đá hay chỉ là những cái chết trong bóng tối. ‘

‘Tôi thích những thứ khác với những gì tôi đã biết.’ Cô nhún vai.

‘Nhưng sau khi khoảng thời gian này trôi qua, sau khi nghỉ ngơi xong, cô lại đặt chúng trở lại cái lồng. Cô gác lại những ý tưởng, những lời thề và quay trở lại là một chiến binh mà cô đã được đào tạo để trở thành. Cô quay trở lại cái vùng không gian nhỏ bé mà cô đã cố chạy trốn. ‘

Su-Kassen cảm thấy khó chịu. Chủ đề của cuộc trò chuyện này đã trôi qua và xoay chuyển chỉ trong chốc lát theo cái cách khiến cô khó theo dõi nó. Dường như có điều gì đó quanh quẩn trong lời nói của vị Primarch nhưng không được ngài đề cập trực tiếp, một mục đích nào đó đang nằm ở cuối câu chuyện mà cô không thể nhìn thấy trước.

‘Chúng ta nhận được những báo cáo đầu tiên từ Uranus ngay sau khi cô rời khỏi phòng chỉ huy,’ Khan nói, liếc nhìn cô rồi quay lại nhìn con chim ưng. Kelik đập đập cánh và mở rộng mỏ. Su-Kassen đột nhiên có ấn tượng rằng con chim đang cười.

‘Một sinh vật tuyệt đẹp. Quá đẹp để bị giữ trong lồng. Giữ một con vật như thế này xa khỏi bầu trời sẽ khiến nó phát điên. Cho nên, hãy để nó đi săn, đó là lời khuyên của ta’

‘Khi có thể, tôi thường mang nó lên những bức tường công sự xung quanh và để nó tự do bay lượn.’

‘Và nó luôn quay trở lại chứ?’

‘Luôn luôn.’

Đại Hãn mỉm cười, sau đó sắc mặt tối sầm lại, vẻ mặt giống như một đám mây vừa lướt ngang che khuất mặt trời.

‘Tiếng còi báo động bên ngoài, chúng liên tục vang lên. Tại Actinus Hive, một giờ trước, mười nghìn người đã tự kết liễu mạng sống của mình bằng cách bịt kín một khu vực bên trong hive và cắt đứt nguồn cung không khí đã nuôi sống họ. Tin nhắn cuối cùng từ bên trong khu vực nói rằng họ có thể nghe thấy tiếng tru của những con sói trong mơ và kể cả sau khi thức dậy. Có những vụ việc khác tương tự đã xảy ra, quy mô nhỏ hơn nhưng tăng lên theo cấp số nhân sau vài giờ. Liên lạc với Mars đã chìm vào im lặng. Lửa và nỗi sợ hãi liên tục lan rộng và lan rộng. Ngay trước khi gõ cửa bước vào đây, ta được thông báo rằng đã có những lời cầu xin từ Triton và các thuộc địa mặt trăng của Neptune. Họ có thể nhìn thấy ánh sáng của trận chiến từ Pluto. Họ đang yêu cầu lực lượng tàu chiến được điều đi từ quỹ đạo của họ quay trở lại. Họ muốn được giúp đỡ. Họ muốn Ngài Cận Vệ của Terra cứu họ. ‘

Một khoảng khắc im lặng bao trùm căn phòng.

‘Uranus sẽ trụ được chứ?’ cuối cùng Su-Kassen thốt lên. Cô nghĩ về những con tàu, hàng trăm con tàu đã được điều động từ các hành tinh khác để tăng cường bảo vệ Cổng Elysian. Cô nghĩ về các nguồn lực lấy từ Neptune để tăng cường khả năng phòng thủ của Uranus. Cô nghĩ đến cái giá phải trả để giữ cho từng vành đai phòng thủ không bị sụp đổ, ép những kẻ phản bội phải chiến đấu và đổ máu để kiểm soát Uranus và cánh cổng mà nó canh giữ.

‘Ta được gọi là Ưng chiến (WarHawk)’, Khan nói, ‘nhưng có lẽ chỉ vì ta được ban cho một bầu trời để có thể sải cánh bay lượn. Em trai ta, Dorn, từ trước đến nay chỉ biết đến những cái lồng – nghĩa vụ, danh dự và sức mạnh. Đối với từng song sắt của mỗi cái lồng mà những người khác đặt xung quanh nó, nó tự mình làm chúng trở nên cứng rắn hơn. Nó tự mình làm cho những cái lồng xung quanh nó ngày càng nhỏ đi và vững chắc hơn cho đến khi việc giang rộng đôi cánh sẽ xé toạc bản thân nó’

Đại Hãn giơ cánh tay lên và Kelik dang rộng đôi cánh lướt trở lại vai Su-Kassen.

‘Cô có quyền đặt câu hỏi về cái cách mà trận chiến này đang diễn ra, Đô Đốc’, Khan nói. ‘Cô có quyền để cho trái tim mình nghi ngờ và cô có quyền nói ra những nghi ngờ đó với em trai ta. Nó sẽ lắng nghe cô. Nó tin tưởng cô. Và cái cách mà nó đã chọn để chiến đấu trong trận chiến này có lẽ sẽ là cái lồng cuối cùng mà nó tự tạo ra cho chính mình. ‘

‘Ngài có nghĩ rằng em trai ngài đã sai?’

‘Không, ta nghĩ nó đã làm đúng, nhưng những gì nó phải làm đang phá vỡ bản thân nó. Nó cần một ai đó nói cho nó biết cái giá phải trả và để nó lựa chọn những điều phải làm. Nó cần được phép bay ngay trước khi quay trở lại cái lồng tạo thành từ những điều thực tế cần được thực hiện’

Đại Hãn đứng lên và cúi đầu chào. Su-Kassen nhổm dậy, nhưng bị Khan giơ tay cản lại.

‘Cảm ơn của tôi, Đô Đốc, vì lòng hiếu khách của cô và vì đã cho phép ta nói ra những điều ta muốn.’

Cô cúi đầu chào, không biết nên nói gì.

Đại Hãn bước ra cửa, mở ra rồi quay lại nhìn cô.

‘Kẻ thù đã cử một lực lượng khổng lồ băng qua Elysian Path phía ngoài Uranus. Quỹ đạo các mặt trăng của nó đang rực cháy. Nhưng Uranus sẽ đứng vững.’ Khan nở một nụ cười buồn. ‘Nó sẽ đứng vững.’

CHƯƠNG 5

PHẦN HAI

XUYÊN QUA BÓNG ĐÊM VANG VỌNG

NĂM

Chúa tể của tia chớp mùa hè

Địa ngục nơi vùng rìa ánh sáng

Tình anh em

Battleship* Lance of Heaven , Vịnh Supra-Solar*

Những chiếc tàu thuộc các hạm đội Falcon bẻ lái quay lại vùng vực thẳm khi vừa chạm vào rìa ánh sáng. Bay theo đội hình từng nhóm 3 hoặc 4 chiếc, những con tàu màu trắng xám, bay một mình trong bóng tối trên vùng bình nguyên quỹ đạo của Hệ Mặt trời bên dưới, nơi mà ánh sáng tỏa ra từ mặt trời chỉ còn là một chấm nhỏ đang rực cháy. Chúng là những con tàu của Quân đoàn V, những kẻ giết người mau lẹ và bóng bẩy. Sau khi đến Terra, Đại Hãn đã chia nhỏ các hạm đội của mình thành nhiều đơn vị và ném chúng lên các khu vực bên trên và bên dưới mặt phẳng quỹ đạo của Hệ Mặt trời. Ở đó, các con tàu bay vòng quanh ánh sáng của mặt trời như những con chim ưng lượn quanh người huấn luyện chúng.

Một số người có cấp bậc trong bộ chỉ huy đã đặt câu hỏi liệu các tàu của Quân đoàn V nên được bổ sung vào sức mạnh của hạm đội đóng quanh Luna và Terra hay nên được gửi đến để tăng cường vòng phong tỏa quanh Mar – thứ vừa được tạo thành bởi những tàu chiến do Sanguinius mang đến. Đại Hãn đã nói không. Các chiến binh của ngài sẽ chiến đấu trên mặt đất Terra, nhưng những con tàu của ngài không phải là những con chó bị xích lại, bị buộc nằm cạnh canh chừng cái lò sưởi. Sức mạnh của chúng nằm ở khả năng cơ động, sự nhanh nhẹn và khả năng bay lượn. Rogal Dorn đã đồng ý và điều đó đã chấm dứt cuộc tranh luận. Các con tàu của Quân đoàn White Scars được bố trí rải rác với các mật độ khác nhau trên vòng tròn quỹ đạo của các hành tinh, tự do bay lượn để quan sát vùng không gian tăm tối xung quanh.

Vùng giới hạn bên trong nơi các con tàu có thể dịch chuyển trở lại từ Warp, về cơ bản, là một hình cầu có tâm là mặt trời. Những con tàu không đi qua cổng điều hướng tại Uranus hoặc Pluto có thể dịch chuyển vào bất kỳ điểm nào trên bề mặt vô hình của quả cầu đó. Và chỉ vì Cổng Elysian và Cổng Khthonic đã trở thành hai mục tiêu đánh chiếm hàng đầu không có nghĩa là những kẻ phản bội sẽ không tấn công từ mặt phẳng các vùng bên trên hoặc bên dưới đĩa quỹ đạo của hệ sao. Trên thực tế, ở một khía cạnh nào đó, điều đó dường như chắc chắn sẽ xảy ra. Vì vậy, những con chim ưng của Quân đoàn V bay lượn xa khỏi ánh sáng mặt trời, lặng lẽ quan sát và chờ đợi.

Trên cầu tàu chiếc Lance of Heaven, Jubal Khan đang quỳ trong bộ áo giáp và để dòng suy nghĩ của mình xoay vòng. Thanh trường đao (guandao) đặt trên sàn tàu phía trước.

Guandao là một thanh đao xuất xứ từ hành tinh Chogoris (hành tinh Đại Hãn đã đáp xuống khi còn nhỏ) thuộc loại power weapon. Được coi là một vũ khí được ban phước lành, một thanh guandao được tạo thành bởi 1 trục kim loại dài 2m có đầu gắn một lưỡi đao cong mài sắc 1 cạnh. Lưỡi đao thiết kế cong nhằm mục đích mở rộng tầm với, tăng mô men từ đó tạo ra một lực xuyên phá khủng khiếp khi chúng được xoay tròn. Điều này làm các thanh guandao trở thành thứ vũ khí lý tưởng để tấn công từ phía sau các phương tiện hoặc các kẻ địch từ khoảng cách ngoài tầm với của các vũ khí cận chiến khác. Trong các tình huống cận chiến, mục đích của nó chuyển thành việc tước vũ khí hoặc làm chệch hướng các đòn tấn công của đối thủ. Để dễ hiểu thì nó giống như Thanh long đao của Quan Vũ nên mình dịch là trường đao để phân biệt với Đại đao là dạng giống như Đồ Long Đao của Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn.

Khói đang bốc lên từ đôi bát hương đặt hai bên người Jubal. Chiếc Lance of Heaven không có ghế dành cho thuyền trưởng, sàn chỉ huy nơi Jubal Khan đang quỳ chỉ là một bục cao bằng gỗ mun và xương đã ố vàng. Phi hành đoàn của con tàu hoạt động xung quanh, gần như im lặng trừ những lúc mệnh lệnh được hét lên.

Qua nhịp thở chậm rãi của mình, Jubal lắng nghe chuyển động lên xuống của con tàu cùng tiếng gầm gừ chậm rãi của máy móc. Luôn có những khoảnh lặng thế này trước khi cơn bão thực sự của trận chiến ập đến, sự im lặng và áp lực đang xây lên một tòa nhà trước khi ánh chớp và sấm sét xuất hiện. Nó đang đến. Các báo cáo về những cái chết trong không gian đến từ Pluto và Uranus, các cảm biến của con tàu đã nhìn thấy ánh sáng bùng lên từ những trận chiến. Từ đây, nhìn xuống đĩa quỹ đạo hệ sao bên dưới, ánh sáng của trận chiến như phát ra từ những vùng đất xa xôi, hẻo lánh, nhưng Jubal biết đó là một nhận thức sai lầm. Đây là trận chiến sẽ mang đến kết thúc cho tất cả các trận chiến khác, một cơn lốc xoáy sẽ bao trùm mọi thứ và không để lại gì sau khi nó đi qua. Anh có thể nghe thấy tiếng cơn bão đang đến gần trong tĩnh lặng.

Những kỉ niệm ngày xưa chợt rơi vào trong suy nghĩ của Jubal như những giọt mưa. Anh nhớ lại những trận chiến tay đôi vì danh dự hay những trận chiến vì những lý tưởng mà giờ đây đường như chỉ là những lời nói dối với lũ trẻ con. Anh nhớ lại khuôn mặt của tất cả những người anh em từng thân thiết: Sigismund – người mà linh hồn bị xiềng xích vào lời thề và thanh kiếm của anh ấy; Boethius – người hết sức nghiêm túc trong việc tập luyện để trở thành bậc thầy sử dụng trường đao trong khi những người khác trong Quân đoàn đứng nhìn, cười cợt nhạo báng và vui sướng xem nó như một trò đùa; Abaddon – người đang cúi xuống để vuốt mắt một người anh em đã chết trong lớp bụi đỏ mù mịt. Anh thấy mình không thể mỉm cười trước những mảnh vụn của quá khứ.

Bọn họ rồi sẽ trờ thành thứ gì đây?

Tất cả bọn họ rồi sẽ trở thành thứ gì khi cơn bão đang tìm cách xóa sạch những sự thật của quá khứ?

Anh nghe thấy nhịp điệu quanh sàn chỉ huy chợt thay đổi và mở mắt.

‘Chúng ta vừa nhìn thấy gì?’ Jubal hỏi.

Các cảm biến của chiếc Lance of Heaven vừa phát hiện một con tàu, một giây sau đó, chúng xuất hiện nhiều hơn, hàng loạt tàu địch, hết chiếc này đến chiếc khác đang lao xuống như một cơn mưa tên. Những servitor điều khiển hệ thống quét của con tàu đụng phải một nghịch lý khi họ cố gắng định vị từng tàu địch một cách riêng lẻ. Dữ liệu đã làm tràn bộ nhớ của họ. Giá trị sức mạnh của địch thay đổi liên tục, trở thành giá trị gần đúng qua từng giây: mười, hai mươi lăm, một trăm lẻ sáu, hàng trăm, hàng nghìn, …

Trong bóng tối ngoài kia, ở một khoảng cách quá rộng lớn đến nỗi ngọn lửa phun ra từ động cơ biến mất trong vòng cung của các vì sao, một hạm đội tàu chiến của địch đang trút xuống chiếc Lance of Heavenvà ba tàu hộ tống. Các tàu chiến của kẻ thù đã bắt đầu tăng tốc ngay sau khi chúng được vật chất hóa một cách hoàn chỉnh trong không gian thực và giờ đây đang bay với một mật độ dày đặc khủng khiếp.

‘Chúng đã phát hiện ra chúng ta,’ một sĩ quan thông báo.

Jubal Khan đọc được cú sốc trong những con người trên tàu trước khi anh nhìn thấy các dữ liệu. Các mệnh lệnh phát ra từ môi anh một cách hiển nhiên như chúng luôn là thế, không chút do dự.

‘Tiến về phía cơn gió,’ anh nói.

Động cơ chính của chiếc Lance of Heaven rực lên ánh lửa màu xanh lam nóng bỏng và con tàu to lớn lao thẳng lên trên, hướng về phía hạm đội địch đang hạ xuống. Ba con tàu hộ tống giật mạnh rồi lao theo. Các động cơ tăng tốc phụ khạc ra từng tia lửa dọc theo chiều dài bốn con tàu, ném chúng thẳng về phía trước theo những đường hình xoắn ốc.

Các tín hiệu được gửi trở lại hướng đến các hạm đội anh em khác của Jubal đang bay vòng quanh mặt trời và tạo thành từng gợn sóng về phía Terra.

‘Cảm biến của địch có thể cung cấp cho chúng nhiều phương án khai hỏa khác nhau’, tiếng báo cáo vọng qua cầu tàu, ‘Ước tính sắp đạt đến tầm bắn tối đa của vũ khí’.

‘Chọn mục tiêu và gửi đến chúng một lời chào nào,’ Jubal nói bằng giọng đều đều và điềm tĩnh. Một giây sau, hình ảnh một con tàu ở phần trước hạm đội địch hiện lên thành một hình chiếu ánh sáng ba chiều. Đó là một con tàu thuộc lớp cruiser có với kích thước to lớn nhưng không lớn bằng một trong những con tàu quái dị khác đang bay bên cạnh.

Đây là cách họ sống như những chiến binh, cách vị Primarch và tổ tiên của họ đã chiến đấu trên Chogoris – đánh dấu một chiến binh nằm trong hàng ngũ cao cấp của kẻ thù ngay khi vừa tham gia trận chiến. Không phải là chỉ huy địch, một kẻ thù mạnh sẽ không bao giờ để những mũi tên có cơ hội bắn trúng nhà của chúng, nhưng cũng không phải là linh hồn của một kẻ tầm thường nào đó. Mạng sống đầu tiên bị tước đi phải đủ quan trọng để gây chú ý cho những kẻ mạnh còn lại cũng như làm kinh sợ những kẻ yếu đuối đang theo sau chúng.

Jubal quan sát con tàu được đánh dấu, con tàu được chọn lớn dần trên máy quét trong khi hệ thống nhận dạng cogitator đang xác định danh tính của nó. Đó là chiếc Fourfold Wolf, một tàu chiến cấp Quân đoàn được Quân đoàn XVI tiếp nhận như một phần thưởng khi chúng còn mang tên Luna Wolves. Một lựa chọn tốt. Một mục tiêu xứng đáng để hạ sát.

Jubal đứng dậy, tay cầm thanh trường đao. Anh cảm nhận được sự rung chuyển của con tàu bên dưới khi linh hồn những động cơ của nó được triệu hồi trong lửa. Trên màn hình chỉ huy, anh thấy toán quân địch đang tiến lại gần hơn, chúng trải dài, dài đến mức xa hút khỏi tầm nhìn của anh. Chúng như một đám mây. Một cơ bão đến từ bên ngoài đường chân trời đen tối. Anh nhận ra mình đang mỉm cười.

‘Phóng’, anh ra lệnh.

Những quả ngư lôi bị đốt cháy rồi tự do lao về phía trước từ mỗi con tàu của Quân đoàn White Scars, phóng thẳng và trực diện vào chiếc Fourfold Wolf.

‘Chúng ta đã lọt vào tầm bắn của địch’, một sĩ quan hét lên báo cáo.

‘Bánh lái’, Jubal ra lệnh. Chiếc Lance of Heaven và những tàu hộ tống của nó cắt động cơ chính ngay lập tức, đồng thời khởi động các động cơ đẩy phụ khiến chúng lộn nhào về hướng ngược lại. Ngay sau đó, động cơ chính được kích hoạt trở lại, cháy sáng khi chúng rút hết năng lượng từ mọi hệ thống khác.

Đèn trên cầu tàu chiếc Lance of Heaven mờ ảo. Jubal lắng nghe nhịp điệu của những giọng nói và máy móc khi chiếc Fourfold Wolf nhận ra điều gì sắp xảy đến và cố gắng bẻ lái sang bên cạnh để tránh những quả ngư lôi đang tụ lại, hướng thẳng về phía nó. Chiếc tàu cố gắng khởi động các động cơ phụ hai bên thân tàu, nhưng mọi việc diễn ra quá nhanh. Những quả ngư lôi xuyên qua các tấm shield của nó như những mũi tên sắt xuyên qua vải. Lửa đỏ nở rộ, rồi lớn dần. Trong một khoảng khắc, con tàu vẫn tiến về phía trước, quán tính đã tiếp tục kéo nó lao đi ngay cả khi vụ nổ đã làm thân tàu sụp đổ. Những con tàu bay cạnh nó cố gắng tránh ra xa. Sau đó, thân tàu mở toác ra và một bông hoa ánh sáng màu đỏ, cam nở rộ trong không gian.

‘Đó chỉ mới là nhát chém đầu tiên,’ Jubal Khan tự nói với chính mình, vẫn đang mỉm cười.

(phần 2)

Chúa tể của tia chớp mùa hè

Địa ngục nơi vùng rìa ánh sáng

Tình anh em

Strike Frigate Lachrymae , Vịnh Trans – Plutonian

Lửa đang bao quanh Pluto. Khi kẻ thù tiến đến cổng vào Terra trước đó, chúng đã ẩn mình dưới lớp áo choàng của sự dối trá. Quân đoàn Alpha đã tắm máu quỹ đạo của Pluto thông qua nhiều mánh khỏe bẩn thỉu trước khi chúng bị quét sạch. Lần này thì các lực lượng phòng thủ đã sẵn sàng nhưng kẻ thù đã xuất hiện một cách công khai cùng với sức mạnh áp đảo.

Hàng nghìn tàu chiến đang bay vòng quanh trong khoảng không xung quanh Pluto. Chúng tạo thành những đợt tấn công với sự tham gia của hàng trăm con tàu, làm đông cứng không gian trong lửa sau đó biến mất, rút lui trở lại trong bóng tối. Cổng Khthonic đã rơi vào tay những kẻ xâm lược nhiều ngày trước. Đến cuối cùng thì mọi thứ đều chỉ đơn giản là một câu hỏi về những con số. Những kẻ tấn công đã mất rất nhiều tàu, nhưng cứ mỗi chiếc bị bắn thành những mảnh vụn nóng chảy, thì xuất hiện nhiều chiếc khác được gửi đến để thay thế chúng.

Những đợt tàu địch ngày càng mang nhiều dấu tích của Warp cũng như những vết thương từ các trận chiến đã qua. Những tàu đổ bộ khổng lồ đến cùng những tàu chiến được trang bị tận răng, thân tàu đang bị bào mòn bởi lũ daemon còn thiết bị truyền tín hiệu vox của chúng đang đều đều phát ra những từ vô nghĩa từ thứ ngôn ngữ không thuộc thế giới vật chất. Từng chút một, chúng bao trùm quỹ đạo của các hành tinh. Hệ thống phòng thủ thuộc Hạm đội First Sphere của Sigismund giờ đây đã bị bao vây, khoảng trống ở mọi phía quanh họ tràn ngập tàu địch. Nhưng họ vẫn đứng vững. Những con tàu còn lại của Quân đoàn Imperial Fists vẫn di chuyển và chiến đấu không ngừng nghỉ trong khi khoảng không quanh mình ngày càng bị thu hẹp.

Kẻ thù đã chiếm được Nix và Charon và kể từ lúc đó các pháo đài mặt trăng của Pluto đã liên tục bắn vào nhau trong lúc quay xung quanh quỹ đạo hành tinh mẹ. Các trận chiến bất kể quy mô lớn nhỏ bùng nổ ác liệt, thắp sáng hàng phòng thủ trong lửa đỏ. Ngay cả khi lực lượng của Horus tràn xuống các mặt trăng, chúng vẫn thấy những đoạn đường đầy ngóc ngách mà chúng băng qua được trải đầy bẫy. Hệ thống điều khiển chính trên các mặt trăng đã sụp đổ. Tại Nix, các ống dẫn plasma đến khu vực các bệ súng trên bề mặt hành tinh bị nóng chảy rồi vỡ tung. Còn tại Charon, một đội quân những servitor – sát nhân tràn vào các hành lang từ những hầm giam bí mật trong tường và sàn nhà.

Nhưng những kẻ phản bội cũng đã gieo những mầm mống phản trắc xuống trước họ. Và trên các mặt trăng cũng như các tiền đồn vẫn đang do quân phòng thủ kiểm soát, những hạt giống đó đã nở rộ. Trên Kerberos – pháo đài mặt trăng được trang bị các vũ khí hạng nặng, một sĩ quan cấp cao của Solar Auxilia bước vào phòng điều khiển thông tin liên lạc và bắn một vũ khí plasma kỹ thuật số vào cụm máy quét xác định mục tiêu chính trước khi tự chĩa thứ vũ khí đó vào đầu. Trên Hydra – nơi được xem như trạm astropathic của Pluto, các bể chứa vi rút và chất độc thần kinh được Quân đoàn Alpha cài vào hệ thống các máy lọc trên bầu khí quyển trong cuộc tấn công vài tháng trước đã lan truyền cái chết đến tất cả không khí ở những tầng thấp hơn.

Và ngọn lửa tiếp tục nhảy múa trong bóng tối, liên tục thay đổi hình dạng nhưng chưa hề dừng lại. Những chùm tia dài hàng chục nghìn km xẹt qua khoảng không giữa các tàu địch và các mặt trăng kiên cố còn lại của Pluto. Hàng triệu tấn đạn liên tục trút xuống từ các họng súng của Kerberos. Những vụ nổ nở rộ trong bóng tối, lớn dần, mờ dần rồi lại tiếp tục xuất hiện thắp sáng không gian.

Những con tàu của Hạm đội First Sphere bị buộc phải di chuyển liên tục giữa các pháo đài mặt trăng và hành tinh mẹ của chúng. Họ tham gia vào mọi cuộc giao tranh, ra sức cầm chân kẻ thù thêm vài giờ rồi tiếp tục di chuyển. Tuy nhiên, hành động ấy còn nhằm thực hiện một mục đích khác. Thật chậm rãi, họ đang dần di tản những kho vũ khí cũng như lực lượng binh lính rời khỏi hệ thống phòng thủ. Việc này đã được lên kế hoạch từ lâu và tất cả các chi tiết được giữ bí mật tuyệt đối. Nhưng vẫn có những đôi mắt trong hàng ngũ những người bảo vệ Pluto đang quan sát mọi việc cho vị Warmaster phản bội và chẳng bao lâu kẻ thù sẽ nhận ra việc mọi đơn vị Space Marine cùng các tuyến lực lượng phòng thủ chính đều đã biến mất khỏi các pháo đài.

Hy vọng duy nhất còn lại là chúng sẽ không biết điều đó mang ý nghĩa gì.

Trên cầu tàu chiếc Lachrymae, đôi tay của Sigismund đang nắm chặt chuôi thanh kiếm đã rời vỏ của mình. Bụi bẩn, máu và những vết sẹo của trận chiến đã ghi dấu ấn trên áo giáp của anh cùng hàng tá tờ giấy tuyên thệ đang treo trên giáp vai. Một số đã bị đốt cháy một nửa, số còn lại là những tờ giấy vừa được ghi chép bằng những dòng chữ còn chưa ráo mực trên tấm giấy da.

Trong bổn phận được giao phó, con sẽ không chút do dự.

Trong những hành động bắt buộc phải được thực hiện, con sẽ trở nên kiên quyết.

Mặc dù bước đi trong bóng tối, con sẽ không bao giờ vấp ngã hay chùn bước ….

Sigismund đã luôn tuân theo từng từ trong lời thề trên. Anh đã tự tay viết chúng vào nhiều năm trước bằng mực trộn với phần tro cốt còn lại của những người đã ngã xuống. Họ chính là những lời mà Sigismund đã thề và luôn được anh mang theo bên mình cho đến thời điểm này và còn cho đến mọi khoảng khắc về sau.

Trước mắt anh ta, một chùm đạn pháo nova vừa bắn trúng Kerberos, nổ rang và hú lên khi chúng thổi tung những tấm void shield và cày nát một khu vực rộng nửa km trên bề mặt của pháo đài mặt trăng.

‘Sức mạnh của hạm đội còn lại ở mức 65% và đang được giữ ổn định’ , tiếng báo cáo của Boreas vang lên. Hình chiếu ba chiều của người Thiếu úy 1 hiển thị cạnh Sigismund đã im lặng trong vài giờ qua khi chiếc Lachrymae được cơ động vào vị trí. Mọi con tàu của hạm đội cần phải bay đến một vị trí định trước thật chính xác để cùng nằm trên một vector một cách hoàn hảo và mục đích đằng sau tất cả sự sắp xếp đó còn cần phải được che giấu khỏi tai mắt của kẻ thù. Đó là một hành động đòi hỏi ý chí cũng như kỹ năng điều khiển điêu luyện. Dưới bàn tay của bất kỳ Quân đoàn nào khác ngoài Quân đoàn VII, điều đó gần như là bất khả thi.

Boreas nói: ‘Thời khắc ấy sắp đến rồi’.

Sigismund lắc đầu sau một hồi im lặng.

‘Nó đã đến rồi,’ anh nói. ‘Đây đã là điểm tới hạn. Cố gắng hơn nữa thì chúng ta cũng không còn sót lại gì nữa’

Sigismund nhắm mắt lại trong giây lát, siết chặt thanh kiếm qua lớp găng tay.

‘Vẫn còn thời gian để gửi tín hiệu cho Terra yêu cầu xác nhận mệnh lệnh, thưa ngài.’

“Đây là ý muốn của Ngài Cận vệ, của…” Anh dừng lại, một lần nữa anh nghe thấy tiếng gió thổi ngang qua Khu thẩm vấn khi Rogal Dorn nhìn xuống anh.

‘Ta không phải là cha của ngươi!’ vị Primarch đã gầm lên như thế. Rồi khẽ lặp lại ‘Ngươi không phải là con của ta. Và bất kể tương lai phía trước có ẩn giấu điều gì đi chăng nữa, ngươi vẫn sẽ không bao giờ là con ta.’

‘… Của cha chúng ta,’ Sigismund tiếp tục. ‘Và nó sẽ được hoàn thành.’

Boreas khẽ cúi đầu.

‘Tất nhiên rồi. Nhưng vẫn có những cách khác. Chúng ta có thể – ‘

‘Chúng ta không được tạo ra để đặt câu hỏi, người anh em’, Sigismund nghe thấy sự sắc lạnh trong giọng nói của mình, đó là tiếng vọng của những lời đã chia cắt anh khỏi tất cả những gì anh từng coi trọng và từng biết đến. Anh thở dài và tiếp tục bằng một giọng trầm hơn, ‘Nhiệm vụ của chúng ta bây giờ là tuân lệnh cũng như thể hiện lòng trung thành đến cùng. Bằng bất cứ giá nào, bằng bất cứ hành động nào cần phải được hoàn thành bất kể nó có khiến đôi tay của chúng ta vấy bẩn ra sao’

‘Tôi đã hiểu,’ Boreas đáp.

Sigismund gật đầu. Anh nhìn lại nơi mũi nhọn của một tàu địch đang lao về phía Kerberos. Pháo đài mặt trăng hùng mạnh một thời đang quằn quại đau đớn dưới ánh sáng của các phát đạn nova dồn dập dội xuống và bên kia vòng cung bề mặt Pluto, Nix đang tiến gần đến vị trí đối diện. Những tia sáng phát ra từ pháo đài bị chiếm đóng nổi lên dày đặc khi nó bắt đầu bắn vào người anh em của mình.

Sigismund quay lưng khỏi cảnh tượng đó. ‘Ngay khi Kerberos sụp đổ, hãy gửi tín hiệu. Toàn bộ hạm đội rút lui, tất cả các tàu hướng về vùng lõi của hệ sao.’ Anh cảm thấy từng từ trên đầu lưỡi trở nên cay đắng khi sắp sửa ra mệnh lệnh tiếp theo, ‘Báo tin cho Terra. Pluto đã thất thủ. ‘

(phần 3)

Chúa tể của tia chớp mùa hè

Địa ngục nơi vùng rìa ánh sáng

Tình anh em

Chiến hạm Battle Barge War Oath, vịnh Supra-Solar

‘Cầm lấy nó, con trai.’

Ánh lửa và bóng tối nhảy múa trên khuôn mặt người đàn ông lớn tuổi vừa lên tiếng. Ông bước vào phòng cùng hơi thở nồng nặc mùi rượu thịt và một bên mắt trái đã bị vết sẹo nuốt mất.

‘Cầm lấy nó,’ ông ta lại rít lên, chìa con dao cán xương ra phía trước. Ánh sáng của ngọn lửa đặt trong những cái bát vỡ rải rác xung quanh hang động nhuộm một màu đỏ cam lên lưỡi dao sáng bóng. Ông già bước lại gần hơn. Mái tóc đỏ thẫm được buộc cao bằng một dải băng đang rũ xuống giữa hai vai phủ kín bởi cơ bắp, ít hơn so với thời trai trẻ, nhưng vẫn đủ để lấp đầy khung xương to lớn của ông ta. Bộ giáp phủ cacbon được rèn kỹ lưỡng che trước ngực cùng những chiếc nhẫn sắt giết người trên ngón tay và những đồng xu hai mặt lấp lánh treo trên những sợi dây dài phát ra tiếng leng keng khi ông ta bước đi. Ở phía xa đằng sau, bên dưới bức tường hang động, một đám đông những chiến binh gọi người đàn ông lớn tuổi là chúa tể đang tụ tập và quan sát trong im lặng.

Chàng trai trẻ nhìn qua vai người đàn ông và trông thấy bốn bóng người đang quỳ trên sàn, cổ bị quấn quanh bằng những sợi xích trên tay mỗi chiến binh đứng sau lưng họ. Anh nhận ra Gul, vai cô ấy đang phập phồng khi cố gắng tự kiểm soát bản thân. Tay cô run lên và những đồng xu hai mặt màu đen tết trên tóc kêu lạch cạch. Bất cứ ai không quen biết cô ấy đều nghĩ đó là biểu hiện của sự sợ hãi. Nhưng không. Cô ấy đang cố gắng kiềm chế cơn giận dữ của mình. Kars nằm bất động bên cạnh Gul, tay chân dài ngoằng co lại sát người, mái tóc vàng xơ xác xõa trên mặt. Anh liếc lên, đôi mắt xanh lóe sáng trong giây lát trước khi người chiến binh đè đầu anh xuống. Dask thì nhìn giống đang ngủ, cái đầu bự như đá tảng gục xuống thấp trên ngực. Còn Graidon đang run lẩy bẩy, các ngón tay uốn éo như thể đang cố gắng tìm kiếm bộ dao găm quen thuộc.

‘Cầm lấy đi, Abaddon,’ người đàn ông lớn tuổi – vị vua của anh nói, rồi cúi xuống khẽ thì thầm. ‘Đừng làm ta thất vọng, con trai. Con đã được định sẵn là một vị vua. Còn đây là cái giá phải trả cho vương miện và ngai vàng.’ Ông nắm lấy tay Abaddon rồi đặt lưỡi kiếm vào. ‘Con phải học cách trả cái giá đó ngay bây giờ.’

Cha anh bước lùi lại. Abaddon nhìn xuống bốn người đã chạy cùng anh trong những năm tháng thời thơ ấu. Họ đã cứu mạng anh, anh nợ họ. Anh nhớ rõ tiếng cười và giọng nói của họ như tiếng cười của chính mình. Gul đã dạy anh cách để tin tưởng vào ai đó còn Graidon đã dạy anh cách để nói dối. Họ là những chiến hữu của anh, những người họ hàng được ràng buộc bằng lời thề huyết thống, họ đã trưởng thành cùng anh, đã góp phần tạo ra con người anh bây giờ; họ là một phần cơ thể anh giống như bàn tay đang cầm con dao lúc này.

‘Hãy nghe và hãy xem’, mụ phù thủy già xấu xí Sekridalla bắt đầu kêu lên từ nơi mụ đang đứng, phía sau lưng cha anh. Mụ có cái đầu hói và cánh tay phủ đầy bồ hóng cùng đôi mắt được viền bằng thứ bột có màu rỉ sét. Mụ đang giơ hai lòng bàn tay bôi đầy tro trắng lên trần hang động tối tăm và kêu lên ‘Ngay lúc này, ngay tại nơi này, dưới con mắt chứng kiến của tất cả, được định đoạt bởi máu và bởi quyền lợi chính đáng, đứa con trai của Iron Cord đã đến tuổi trưởng thành. Nó sẽ quay trở lại thời điểm trước khi được sinh ra, từ những hồ nước không có ánh sáng và dùng đôi tay đẫm máu của mình để giành lấy vị trí xứng đáng giữa chúng ta. Hãy nhìn nó khi nó đang tiến đến gần. Hãy nhìn đôi bàn tay đỏ máu của nó đang giơ cao’

Abaddon nhìn bốn người đang quỳ trên nền hang động. Tay anh vuốt ve chuôi dao bằng xương. Anh tiến một bước về phía trước, đứng ngang bằng với cha mình. Đôi mắt của ông đen thẫm như bóng tối, viền bằng những vòng cung phản chiếu ánh lửa xung quanh. Abaddon có thể cảm thấy bầu không khí lập tức trở nên căng thẳng. Anh chậm rãi quay đầu lại và nhìn cha mình.

‘Tôi không muốn trở thành vua,’ anh nói và đâm con dao vào bụng cha mình.

Abađon mở mắt ra.

‘Bắn,’ anh ra lệnh.

Chiếc War Oath gầm lên khi những con tàu màu trắng xám bay đến gần. Bệ súng ở mũi tàu khai hỏa. Một tia plasma phóng ra như một mũi giáo làm rung động không gian xung quanh rồi chụp lấy một con tàu lớp frigate và làm nổ tung thân tàu sau khi chọc thủng các tấm khiên của nó. Luồng sóng năng lượng từ vụ nổ lan rộng, đuổi theo những con tàu thuộc Quân đoàn White Scars ngay cả khi chúng bẻ lái và tăng tốc lao trở lại vào bóng đêm.

‘Tại sao chúng làm thế?’ Zardu Layak nói. ‘Chúng giống như những con côn trùng nhỏ bé đang cố gắng ăn thịt một con thủy quái khổng lồ. Niềm hy vọng ngu ngốc nào đang bùng cháy trong trái tim mà khiến chúng liên tục quay lại hết lần này đến lần khác? ‘

Abaddon không trả lời mà quay sang một tech-adept đang điều hành hệ thống thông tin liên lạc của con tàu. Đó là một sinh vật được gắn vào một cột kim loại bôi đầy dầu cùng hàng đống cáp cuốn quanh những bộ phận còn lại và một chiếc vox cắm vào thẳng vùng miệng. Mùi thịt thối rữa bốc ra nồng nặc từ nó.

‘Báo cho phần còn lại của hạm đội tiếp tục duy trì hướng và tốc độ bay.’

Sinh vật quấn đầy dây cáp bắt đầu gõ lách cách những dòng thông báo, nhưng Abaddon đã bước về phía cửa ra của cầu tàu. Phía sau anh, những khẩu súng của con tàu vẫn đang bắn đuổi theo những chiếc White Scars băng qua các màn hình hiển thị và màn hình nhắm mục tiêu.

Abaddon nghe thấy tiếng bước đi của Layak cùng các vệ sĩ của hắn phía sau và cảm thấy sự tức giận dần dâng lên. Anh bước khỏi tiếng ồn ào từ cầu tàu tiến đến một vùng u ám và tĩnh lặng của khu vực giếng trời liền kề. Một mái vòm bằng kính và sắt che phủ vùng không gian mở phía trên – một dấu ấn điển hình của các con tàu do Quân đoàn Imperial Fists chế tạo. Ánh chớp từ những khẩu súng trên chiếc War Oath lóe sáng băng ngang qua tấm áo choàng dệt bằng những ngôi sao ở phía đằng xa.

‘Anh không ở lại quan sát cuộc phản công của chúng ta à’ Layak nói. Abaddon không trả lời vẫn sải chân tiếp tục bước đi. Sẽ có một cuộc họp hội đồng trước khi hạm đội được chia nhỏ và anh sẽ cần phải sẵn sàng cho điều đó. Mọi chi tiết của từng con tàu, chiếc nào sẽ được bố trí vào phi đội nào đều đã nằm trong đầu anh. Thật đơn giản để tin rằng tất cả sẽ xảy ra như cái cách nó phải như thế, nhưng đó không phải là cách mà một cuộc chiến tranh diễn ra. Vì chiến thắng không chỉ phụ thuộc vào việc vung gươm và giết chết kẻ thù, mà còn phụ thuộc vào sự chuẩn bị của các lực lượng, sự bài trí của các tướng lĩnh và việc lên kế hoạch một cách kỹ lưỡng. Là người được chọn trong số những người anh em của mình cho nhiệm vụ này, Abaddon không phải là một tên đồ tể cũng không phải là một người theo chủ nghĩa định mệnh buồn bã. Anh là một lãnh chúa với quyền lực tối cao trong số các lãnh chúa và danh tiếng đó được tạo nên từ kỹ năng chỉ huy của anh cũng nhiều như người ta biết đến anh qua khả năng sử dụng kiếm điêu luyện.

Abaddon nghe thấy Layak và hai vệ sĩ của hắn dừng lại sau lưng. Anh vẫn không ngừng sải bước về phía cánh cửa ở cuối giếng trời.

‘Anh không bao giờ được bảo vệ sao?’ Layak hỏi

Câu hỏi đó khiến Abaddon cau mày, anh bước đi chậm dần lại rồi dừng hẳn, chậm rãi xoay lại hướng ánh nhìn từ Layak đến hai tên Word Bearers luôn đi theo hắn khắp mọi nơi. Chúng không bao giờ tháo mũ đội đầu, cũng như không bao giờ mở miệng nói chuyện. Cả hai đều đeo kiếm có vỏ bọc ở thắt lưng. Kiếm nô (Blade Slaves), đó là cái tên mà vài người dùng để gọi chúng. Cũng giống như mọi thứ về đám Word Bearers, thứ mùi hắc ám của Warp bao trùm lấy chúng như mùi hôi thối bám quanh một miếng thịt mục nát. Layak nghiêng đầu. Những con mắt đỏ chảy dài trên má chiếc mặt nạ của hắn sáng lên như than hồng dưới ánh sao.

‘Ý tôi là, anh không có vệ sĩ riêng à?’, Layak nói, như thể thà cố gắng trở lại cuộc trò chuyện vừa bị gián đoạn còn hơn là không bao giờ bắt đầu nó. ‘Ngay cả Warmaster cũng có lực lượng Justaerin của riêng mình, nhưng anh, người được biết đến như thanh kiếm của ngài ấy, luôn bước đi một mình.’

Abaddon đáp lại cái nhìn chằm chằm của Layak trong một lúc lâu, rồi từ từ nhìn vào từng tên kiếm nô. Một trong số chúng nghiêng đầu chầm chậm theo tiếng vọng từ lời nói của chủ nhân.

‘Ta không bước đi một mình’, Abaddon trả lời rồi lại quay lưng bước đi. ‘Ta không bao giờ đơn độc cả.’

‘Có vẻ như anh không thích sự hiện diện cũng như những câu hỏi của tôi.’ Layak nói.

Abaddon gầm gừ đáp lại: ‘Ngươi đã tìm ra chân lý rồi đấy, linh mục.’

‘Hẳn là anh không ưa tôi cho lắm, đúng không?’ cuối cùng Layak cũng lên tiếng.

‘Ít nhất thì cả hai ta đều đồng ý về điều đó’ Abaddon mỉm cười lạnh lùng

‘Tôi là một người đầy tớ của cùng một mục đích và cùng những chủ nhân mà tất cả chúng ta đều phục vụ. Vì điều đó, chúng ta nên là những người anh em.’

Abaddon giữ nguyên cái nhìn chằm chằm của mình, cơ thể hoàn toàn bất động.

‘Không,’ anh nói. ‘Ngươi chỉ là một con chó ngửi thấy mùi thịt tươi của kẻ vừa bị giết bởi những sinh vật giỏi hơn, mạnh mẽ hơn ngươi. Một kẻ ăn xác thối kinh tởm không có quyền gọi những con sói là anh em.’

‘Ai là sói và ai là kẻ ăn xác thối kinh tởm?’ Layak hỏi. Abaddon nghĩ rằng anh đã nhìn thấy những chiếc nanh sắt trên mặt nạ của Layak cong lên, như thể bản thân thứ kim loại ấy đang sống. Anh cảm thấy cơn giận bùng lên sau đó, cảm thấy nó đang làm tan chảy lớp băng bao phủ ý chí của anh. Một trong hai tên kiếm nô lướt lên trước.

‘Không’, anh nghĩ. ‘Ta sẽ không bỏ qua cho chúng lần này’

Abaddon làm ra vẻ định quay đi rồi bất thần bật ngược trở lại, nhanh chóng thu hẹp khoảng cách với ba tên Word Bearers trong nháy mắt nhờ những khối cơ bắp mạnh mẽ và bộ giáp của mình. Anh đang mặc một chiến giáp tiêu chuẩn chứ không phải bộ giáp Terminator màu đen tuyền của lực lượng tinh nhuệ Justaerin. Vũ khí duy nhất của anh hiện tại là một thanh kiếm gladius lưỡi ngắn treo ở thắt lưng (một loại power weapon có hình dáng giống kiếm của quân La Mã). Anh rút lưỡi kiếm ra trong lúc lao tới. Trường năng lượng phủ quanh lưỡi kiếm sáng lên với một ánh chớp. Layak đang lùi về phía sau, cây trượng xoay tròn trong tay tạo thành một vòng bảo vệ.

Những tên kiếm nô thì nhanh hơn. Nhanh hơn nhiều. Cả hai đều đã rút kiếm. Những vết nứt chạy dài trên cánh tay của chúng, lửa và tro phun trào từ các vết nứt trên áo giáp khi cơ thể chúng phình to ra. Hai thanh kiếm kéo dài rồi kết hợp với bàn tay chúng, vẽ ra từng lằn ánh sáng trộn lẫn bóng tối khi vung lên.

Abaddon nhìn thấy cú đánh đầu tiên ập đến, anh cúi người né tránh rồi quất ngược lưỡi kiếm của mình vào phần đế của thanh kiếm nơi nó kết hợp với cánh tay. Máu phun ra, hóa thành tro đen khi rơi xuống. Thanh kiếm thét lên và xoắn lại nhào tới tấn công như một con rắn, nhưng Abaddon đã kịp xoay người đỡ nhát chém từ cả hai thanh kiếm khi thanh còn lại đâm vào đầu anh.

Những người đã từng chiến đấu với Abaddon sẽ nói rằng anh ấy rất nhanh, tốc độ của anh thậm chí vượt xa tốc độ thường thấy của những chiến binh được phẫu thuật cấy ghép gen giống anh. Tuy nhiên, tất cả họ đều đã không thực sự nhìn thấy sự thật đằng sau điều đó. Có những người khác, những người thuộc hàng ngũ những chiến binh vĩ đại còn nhanh hơn Abaddon: Jubal Khan, Sigismund, Lucius, Sevatar – thậm chí cả tên ngốc Loken. Không phải là Abaddon nhanh mà đó là do anh ấy không hề bận tâm đến tốc độ: tốc độ trong việc đỡ đòn rồi phản công hay tốc độ trong nhịp tấn công và phòng thủ. Sống hay chết cũng không quan trọng. Đổ máu cũng không thành vấn đề. Thậm chí mạng sống của anh ấy cũng không có ý nghĩa gì. Tất cả những gì quan trọng đối với Abaddon là chiến thắng. Điều đó làm cho anh trở nên nhanh hơn, mạnh hơn, có được nhiều kỹ năng sắc bén hơn. Điều đó làm Abaddon trở nên chết chóc.

Anh tông thẳng vào người tên kiếm nô thứ hai trước khi thanh kiếm của hắn kịp chạm vào mục tiêu. Một mùi khét của da thịt bị đốt cháy và sắt nóng tràn ngập miệng anh. Abaddon siết chặt cái cổ bên dưới mũ bảo hộ lởm chởm gai của tên nô lệ, cảm thấy ngón tay mình bỏng rát khi chúng cắm sâu vào lớp da thịt được Warp nhồi đầy. Anh nhấc tay lên, cổ tay vặn lại, quán tính và sức mạnh truyền dọc cơ thể Abaddon vào tên nô lệ khiến hắn lộn nhào trong không trung văng về phía người anh em song sinh còn lại. Tro và tàn lửa màu cam tỏa ra từ hắn. Tên kiếm nô còn lại tránh sang một bên và lao về phía trước nhưng Abaddon đã tiếp cận được Layak. Anh đọc vị đòn tấn công từ cây trượng của tên Word Bearers và đón lấy nó bằng tấm giáp vai của mình. Layak loạng choạng. Ánh sáng ma quái bò dọc cây trượng. Mặt nạ của tên linh mục đang gầm gừ, những chiến nanh sắt của nó nhai rao ráo trong không khí. Abaddon vòng tay qua Layak, xoay ngược thanh kiếm gladius và chĩa mũi kiếm vào bên hông tên linh mục.

Layak chợt đứng yên một cách bất thường. Cả hai tên kiếm nô như đóng băng tại chỗ.

Nhìn từ xa nó trông gần giống như một cái ôm thân ái, nhưng thực tế cái ôm ấy không hề chứa đựng bất kì điều gì tốt đẹp như vậy. Với bất kỳ cử động nào dù là nhỏ nhất của Layak và Abaddon sẽ kéo lưỡi kiếm xuyên qua ngực hắn, đâm thủng từng và mọi cái xương sườn, cắt qua tim và phổi chỉ trong một đòn duy nhất. Ở Cthonia, họ gọi đó là lời chào của kẻ sát nhân. Hai người giờ đứng gần nhau đến mức Abaddon có thể ngửi thấy mùi trầm hương tỏa ra từ tên linh mục của Quân đoàn Word Bearers.

‘Tình anh em không phải là thứ được tạo thành từ những mánh khóe xảo quyệt lầm lạc đang liên kết những người đã tạo ra ta và ngươi’ Abaddon rít lên. ‘Mà nó là những lựa chọn mà chúng ta đã thực hiện’. Anh chậm rãi quay đầu nhìn lại hai tên kiếm nô đang đứng im như tượng. ‘Ta nhìn vào ngươi và chỉ thấy một điều rằng ngươi đã biến những người từng là anh em của mình trở thành những sinh vật do ngươi kiểm soát. Đối với ta đó là tất cả những gì ta cần biết về ngươi.’

Mọi thứ bị siết chặt trong một giây và Abaddon để phần đầu mũi kiếm bọc năng lượng của thanh gladius đốt cháy một bên giáp ngực của Layak sau đó buông tay và lùi lại. Những tên kiếm nô nhào lên phía trước nhưng Layak đã giơ tay ngăn lại khi hắn đứng thẳng người lên.

‘Và tôi thấy ở bên trong anh là tất cả những gì mà các vị thần đã nói đến.’ Layak nói. ‘Xin nhận lấy sự biết ơn của tôi.’

‘Vì điều gì?’ Abaddon gầm gừ.

‘Vì sự khai sáng và vì anh đã trao trả cho tôi mạng sống của chính tôi, Ezekyle Abaddon. Một hành động như vậy sẽ luôn tạo ra một mối liên kết giữa các linh hồn và bản thân mối liên kết đó đã là một món quà.’ Layak thoáng cúi đầu rồi quay người và bắt đầu bước đi, cây gậy gõ nhịp trên sàn tàu. Hai tên nô lệ thu nhỏ trở lại kích thước bình thường của chúng và tra kiếm vào vỏ. Abaddon quan sát khi chúng đi đến một trong những cánh cửa dẫn ra khỏi khu vực giếng trời.

‘Các vị thần đã luôn quan sát anh, Abaddon. Và họ nhìn thấy anh luôn bước đi một mình ngay cả giữa những người mà anh chọn gọi là anh em. ‘

CHƯƠNG 6

(phần 1)

Chiến sự leo thang

Ngọn thác đổ

Hãy gửi từ này đi

Battle Ship Iron Blood , Vịnh Trans – Uranic

Ngọn lửa của cuộc chiến trải dài từ Cổng Elysian đến quỹ đạo Uranus giống như cánh tay nạm ngọc của một vị thần đang vươn xa. Space hulk *Daughter of Woe *treo lơ lửng trước cánh cổng như một mặt trăng mới của Uranus – giả tạo và xấu xí – nằm chen giữa những đứa con đích thực của hành tinh mẹ. Hệ thống phòng thủ của Uranus không ngừng bắn vào làm các nụ nổ liên tục bùng lên trên bề mặt của nó. Các mảnh vụn vật chất phun từng dòng vào không gian như những hạt bụi nổ ra từ những giọt mưa. Nó không có súng để bắn trả những kẻ hành hạ nó nhưng việc đó đã được những con tàu đang lượn vòng quanh làm thay. Những luồng tên lửa cùng các loạt đạn khổng lồ liên tục tuôn ra từ chúng. Còn ở phía đằng sau, được che chắn bởi kích cỡ khổng lồ của cái space hulk, ngày càng nhiều các con tàu khác bay xuyên qua cổng đáp xuống thực tại.

Đã ba ngày kể từ khi con tàu đầu tiên của kẻ thù băng qua Cổng Elysian và cuộc chiến giành lấy Uranus đã lan rộng khắp quỹ đạo của nó. Các vòng phòng thủ bên ngoài của hành tinh đã thất thủ chỉ trong vòng mười tám giờ từ lúc phát súng đầu tiên được bắn ra nhưng kể từ đó cuộc tấn công của kẻ thù đã bị chậm lại. Giờ đây, nó đã trở thành cuộc chiến tranh giành hàng trăm nhà ga, mặt trăng và các trạm không gian – từ tiền đồn Tau-16-1 của Mechanicum, khối cấu trúc treo lơ lửng như một cây kim đen trên quỹ đạo thấp, đến trạm không gian Cadum cổ xưa, một quả cầu trắc địa với bề mặt bị thủng lỗ chỗ do bụi va đập và bào mòn qua hàng thiên niên kỷ. Phủ quanh mỗi mặt trăng trong số bảy mặt trăng của Uranus đều là những đám mây nhỏ tạo thành từ các trạm void-station và một số lượng không kể xiết hàng tỷ con người sinh sống rải rác trên các ốc đảo chứa đầy sự sống và không khí.

Các toán đột kích của địch đã tiêu tốn rất nhiều công sức để vượt qua hàng rào phòng không rực lửa nhằm đột nhập và mở ra con đường tiến vào các nhà ga và các trạm không gian. Hàng tấn ngư lội và đạn dược được chúng bắn vào quỹ đạo cày thành những con đường chỉ tồn tại vài giờ hướng thẳng vào mục tiêu. Cho đến lúc này, hệ thống phòng thủ vẫn đang chiếm ưu thế nhưng theo thời gian trôi qua, các lực lượng tấn công của kẻ thù đang ngày một lớn mạnh hơn. Các trạm gác dần bị phá hủy hoặc bị chiếm đóng còn quả cầu với tên gọi Uranus luôn chìm trong ngọn lửa bùng cháy không ngừng. Lực lượng phòng thủ đã tổ chức phản công để giành lại các vị trí chiến lược trong lúc ngọn lửa từ lần bị chiếm đóng trước vẫn còn đang bốc cháy hừng hực. Một khu vực sao rộng lớn bằng đồng và plasteel bao quanh Sinderfell đã đổi chủ ba lần trong những ngày qua.

Mặt trăng Umbriel đang bay ngang qua rìa bề mặt được mặt trời chiếu sáng của Uranus khi ngày thứ tư của trận chiến bắt đầu. Rải rác trên bề mặt của nó là các mái vòm bọc thép của những khu trú ẩn còn sót lại nằm cạnh những hố bom và những pháo đài với nòng súng hướng ra ngoài không gian trôi lơ lửng như đang bị buộc vào một sợi dây trong bầu khí quyển không có không khí. Một nhóm 4 tàu assault carrier tách ra khỏi Daughter of Woe và tăng tốc hướng tới mặt trăng đang ló dạng. Được bọc trong lớp áo giáp và những tấm void shield, thân của chúng võng xuống, chất đầy đám lính được nuôi sống bởi những thứ nhầy nhụa kinh tởm trong ruột cái space hulk. Hai chiếc battle cruiser đáp xuống hai bên và một chiếc strike cruiser của Quân đoàn IV mang tên Aesculus bay tới vị trí dẫn đầu để hoàn thành đội hình tấn công của kẻ thù.

Một nhóm sáu chiếc warship của quân trung thành đang chắn ngang đường đi của chúng. Tàu của họ có kích thước nhỏ hơn các tàu cruiser và assault carrier của địch, chúng là các tàu được điều động từ các Quân đoàn khác nhau, 4 chiếc thuộc Quân đoàn Imperial Fists và 2 chiếc còn lại thuộc Quân đoàn Blood Angels. Cánh quân của họ đã bị chia nhỏ để bổ sung cho các cổng ở Terra nhưng những người chỉ huy của sáu con tàu vẫn là một trong những chiến binh chiến đấu trong không gian tốt nhất của Đế chế và đội của họ là những người lính con người được đào tạo và huấn luyện theo tiêu chuẩn của các Quân đoàn.

Quân trung thành bắt đầu khai hỏa, di chuyển và lượn quanh không gian khi họ tiến gần đội hình đang lao tới của kẻ thù. Những đợt ngư lôi phóng ra từ các mũi tàu địch. Các phi đội lập tức cất cánh từ tàu của quân trung thành để đánh chặn các đầu đạn đang lao tới. Từng chùm tia sáng nhảy múa trên các lớp khiên chắn của kẻ thù.

Sáu chiến tàu trung thành tăng tốc, súng bắn cấp tập vào một trong những con tàu carrier to lớn của địch khiến phần phần bụng con tàu mục tiêu bốc cháy ngùn ngụt, những luồng năng lượng nhớp nháp cuộn vào nhau loang lổ xung quanh thân tàu khi các tấm shield của nó tắt ngấm. Bên trong nó là một trăm nghìn binh lính được tuyển chọn từ các Grey Worlds của vành đai Kayuas bị biến thành tro bụi khi plasma phun trào từ các đường ống dẫn bị nứt.

Lưới lửa đan chéo không gian khi các tháp pháo phòng không của Umbriel nhắm vào các quả ngư lôi đang lao tới. Những tiếng nổ làm rung chuyển bề mặt mặt trăng trước khi một phát đạn nova bắn trúng nó. Đó là phát đạn được bắn ra từ một tàu đánh bom quỹ đạo đang neo đậu xa khỏi vùng chiến sự. Các lực lượng phản bội đã hiệp đồng tác chiến với nhau từ trước để khai hỏa bắn trúng mục tiêu vào đúng ngay lúc này. Đầu đạn chứa đầy các máy phát haywire và hàng nghìn thiết bị khởi tạo tín hiệu lỗi nổ tung trên bề mặt của Umbriel. Các đám mây năng lượng vặn vẹo và những tín hiệu auspex ma quái bao phủ các cảm biến của hệ thống phòng thủ ngay khi chúng vừa khóa mục tiêu vào ngư lôi kẻ thù. Các đầu đạn trọng trường và đầu đạn haywire va vào Umbriel ngay sau đó. Những trường trọng lực bị vò nát kéo các pháo đài treo lơ lửng lệch khỏi vị trí của chúng và làm nứt lớp vỏ địa chất trên bề mặt mặt trăng của Uranus.

Phát súng đó không mang tính quyết định nhưng nó đã khiến hệ thống phòng thủ của Umbriel bị mù trong khoảng khắc và thế là đủ. Tiếng lắp bắp vang lên trong màng lửa được dệt từ các họng súng, chỉ là một giây tạm dừng ngắn ngủi nhưng các tàu assault carrier của địch đã bắt đầu rải hàng lớp breaching pod giống những hạt ngô văng ra từ trái chín. Những tàu chiến hộ tống của địch sắp chạm trán trực diện với sáu tàu trung thành.

Những phi đội gunship cắt qua các khoảng không sấm sét bốc lên từ các luồng khí gas khổng lồ đang bốc cháy. Mục tiêu của chúng là các bệ súng đang buộc lơ lửng vào bầu khí quyển của mặt trăng. Những con tàu carrier đã chọn thời điểm một cách chính xác và trút tất cả binh lính phản bội vào sâu bên trong các pháo đài phòng thủ. Những hành lang sáng rực tiếng súng. Một pháo đài đã kích nổ các kho đạn của nó và màn đêm đang rải rác lửa đỏ được điểm xuyết thêm bằng một vụ nổ chói sáng như một ngôi sao vừa được sinh ra.

Forrix quan sát chuỗi dữ liệu từ cuộc tấn công vào Umbriel thêm một giây rồi để nó hòa tan trở vào cơn sóng biểu tượng và chữ số xếp đang xét thành tầng trước mắt anh. Trên toàn chiến trường, Umbriel chỉ là một trong số hàng chục cuộc tấn công nằm trong số hàng trăm cuộc giao tranh, nơi mà việc tính toán thiệt hại của cả hai bên với bất kỳ đơn vị gì ít hơn hàng nghìn là vô nghĩa. Với tư cách là Đại úy 1 và điều phối trưởng của Quân đoàn Iron Warriors, Forrix như có mặt ở mọi nơi, từng giây từng phút kể từ khi chiến dịch được bắt đầu thông qua những dữ liệu mô phỏng liên tục được truyền về hệ thống cogitator trên chiếc Iron Blood. Trên thực tế, chỉ riêng việc quan sát và theo kịp dòng chảy lạnh lẽo của các ký hiệu và chữ số kia đã là một điều hết sức phi thường.

Gần bốn nghìn tàu chiến sơ cấp đã thoát ra khỏi Warp từ Cổng Elysian và đổ vào vịnh Trans – Uranic. Họ đã phải trả giá cho từng km chiếm được nhưng họ có lợi thế về số lượng tàu chiến và hỏa lực. Các lực lượng liên tục tiến quân về phía trước, dàn trải đội hình và tấn công hệ thống phòng thủ một cách chậm rãi, chắc chắn, không ồ ạt, không dữ dội nhưng cũng không thể bị đẩy lùi, như một dòng nước lạnh giá đang bào mòn dần những ngọn núi to lớn. Và cũng giống như kết cục bị biến thành tro bụi cũng những ngọn núi kia, chiến thắng trong trận chiến này gần như là chắc chắn. Đó cũng là một trong những điều làm nên vẻ đẹp của nó.

Vai trò hiện tại của Forrix là nguyên soái nắm quyền kiểm soát và điều khiển tất cả lực lượng tham gia trận chiến, thứ vẫn còn đang liên tục tuôn ra từ Warp. Chỉ riêng việc đó thôi đã là một nhiệm vụ hết sức to lớn. So với tất cả sức mạnh mà họ đã mang vào trận chiến tính đến thời điểm này, thì vẫn còn một số lượng tàu chiến nhiều gấp đôi đang chờ đợi trong thế giới phi vật chất. Thông thường, nhiều chiếc trong số đó sẽ bị đẩy đi rất xa bởi những con sóng năng lượng hoặc bị tấn công bởi những con quỷ neverborn. Nhưng trong khi những cơn bão đang liên tục khuấy động Warp, chúng đã không hề chạm vào những con tàu sắp sửa lao vào cuộc chiến dưới ánh sáng của mặt trời hệ Sol. Các vị thần và những deamon của họ – thậm chí ngay cả Forrix cũng đã bắt đầu gọi chúng như thế – đã kìm hãm cơn đói của bản thân cũng như phớt lờ sự thù ghét từ các chiến binh của vị Warmaster.

Forrix chợt nghe thấy tiếng khí nén kêu lách cách và quay nhìn nơi Perturabo, Primarch của Quân đoàn Iron Warriors, đang đứng – trung tâm của bộ tổng tham mưu. Các piston và những lớp áo giáp kêu vo vo khi ánh mắt ông ta di chuyển đến một thác các biểu tượng ánh sáng đang đổ xuống.

‘Thông tin cập nhật về tình trạng cuộc tấn công vào Pluto đã quá hạn’, vị Primarch nói.

‘Phân tích ánh sáng của trận chiến từ quỹ đạo hành tinh cho thấy một cuộc giao tranh đã nổ ra trên quy mô lớn hơn những gì chúng ta đã dự đoán.’, Forrix báo cáo.

Perturabo chỉnh lại: ‘Hơn những gì Aximand đã dự đoán.’

‘Tôi tin rằng anh ấy vẫn có đủ lực lượng chính để triển khai và sẽ làm chủ chiến trường trong đúng thời gian yêu cầu’. Perturabo không đáp lại và Forrix lên tiếng hỏi: ‘Có điều gì đang khiến ngài phiền lòng sao, thưa ngài?’

Vị Primarch hướng ánh mắt về phía Forrix.

‘Cho đến nay, các dự báo chiến thuật của chúng ta đều đang diễn ra đúng hướng. Thông tin tình báo từ Quân đoàn XX đã được chứng minh là chính xác và những vị trí thực tế mà kẻ địch thay đổi việc bố trí quân lực thì chúng ta cũng có thể dự đoán – như việc chúng di chuyển lực lượng của hạm đội chính từ Neptune sang Uranus hay việc vùng vịnh Trans – Plutonic được tăng cường các loại vũ khí bổ sung. Tất cả đều biến động trong một phạm vi hẹp tạo thành từ sự thận trọng của kẻ thù. Chúng ta đang có được những chiến thắng trong dự kiến và kẻ thù cũng đáp trả theo cách chúng ta đã đoán trước.’

‘Ý ngài là có điều gì đó không ổn khi kế hoạch của chúng ta đang diễn ra như mong đợi?’

Perturabo im lặng một lúc lâu. Kế hoạch tấn công Hệ Mặt trời bao gồm rất nhiều thứ, nhưng nó chủ yếu được tạo ra bởi Horus và Perturabo dưới sự chứng kiến của bóng ma bán thực thể của Magnus the Red. Đó là một tác phẩm của hai thiên tài với bộ óc phi phàm vượt xa khả năng của loài người, một kế hoạch chiến đấu không chỉ tồn tại trong bốn chiều không gian và thời gian, mà còn tồn tại trong thế giới Warp. Và Perturabo là kiến trúc sư đã thiết kế nên những bước đi mở màn cho tất cả. Về mặt trừu tượng, việc sử dụng các lực lượng trên một quy mô nhất định sẽ bị giới hạn bởi khả năng điều phối của Forrix, nhưng The Lord of Iron đã hợp nhất tất cả các lực lượng vào không gian và cả thời gian để tạo thành một chiến thuật có thể đánh chiếm cổng Khthonic và Elysian chỉ trong vài ngày. Đó là một chiến thuật rất trực tiếp, liên tục phát triển và không thể chống lại như triết lý của ông ta: chiến tranh vốn là một môn nghệ thuật đẫm máu. Nhưng giờ đây, khi nhìn vào sự trôi chảy đang diễn ra giữa lý thuyết và thực tế, Forrix đã nhìn ra lỗ hổng.

‘Mọi thứ không nên quá rõ ràng như vậy’, anh nói. ‘Lực lượng phòng thủ đã chiến đấu rất dữ dội và khiến chúng ta phải trả giá, nhưng chúng không có hành động gì mà chúng ta không lường trước được.’

‘Em trai ta,’ Perturabo nói một cách nhẹ nhàng, mắt vẫn nhìn vào dòng dữ liệu, ‘kẻ trong mắt tất cả được tạo thành từ nhiều phẩm chất quý giá. Nhưng ta biết, những sai sót của nó đã luôn bị che giấu bởi những lời ca tụng chất đống xung quanh. Chúng gọi nó là một người kiên định, không mảy may dao động hay nhân nhượng trước kẻ thù nhưng đó chỉ là lớp sơn che phủ sự lỗ mãng không cần lý do của nó. Lòng trung thành cũng chỉ đơn thuần là một điều kiện cần thiết để nó có thể liên kết và được những người xung quanh chấp nhận. Sự cao quý bên ngoài là lớp bọc mạ vàng hoàn hảo cho bản tính kiêu căng bên trong nó…’

Forrix đứng yên. Anh đã không nghe Perturabo trực tiếp nói về Rogal Dorn trong nhiều năm qua.

‘Nhưng có một thứ mà em trai ta không có, đó là sự ngu ngốc.’

Perturabo chìm vào trong im lặng còn Forrix không biết phải nói gì.

The Lord of Iron vẫn im lặng khi dữ liệu của trận chiến nhảy múa trên những quả cầu đen trong mắt ông ta.

‘Tiếp tục như kế hoạch,’ cuối cùng ông ta ra lệnh. ‘Đưa những đứa con trai lạc lối của Hoàng đế qua cổng.’

(phần 2)

Chiến sự leo thang

Ngọn thác đổ

Hãy gửi từ này đi

Tàu chở hàng Antius , quỹ đạo cao Uranus

‘Truyền tín hiệu lại một lần nữa,’ Vek nói. ‘Hãy nói rõ nó là tin nhắn gửi trực tiếp cho hệ thống overseer chính.’

‘Không có phản hồi, thưa ngài,’ nhân viên tín hiệu trả lời. Người phụ nữ ngước nhìn Vek rồi hướng mắt xuống những dụng cụ của mình.

‘Thử lại đi!’ Vek cáu kỉnh, sau đó tự trấn tĩnh bản thân rồi giơ tay làm một động tác như cố xoa dịu bầu không khí căng thẳng. ‘Hãy thử lại một lần nữa’, anh nói và quay đi, dùng hai bàn tay bưng lấy mặt. Anh nhắm mắt lại một giây và nhìn thấy những bong bóng đầy màu sắc nở rộ, bay thoáng qua sau mí mắt. Đôi tay anh đang run lẩy bẩy. Vek nên đi ngủ, nhưng vì tình yêu dành cho tất cả những gì quý giá đối với bản thân thì làm sao anh có thể…?

Tay Vek lần mò tìm đến chiếc mặt dây chuyền nhỏ được anh đeo trên cổ trong suốt mấy năm qua, khuất khỏi những đôi mắt tò mò xung quanh. Bàn tay dừng lại rồi buông thõng bên cạnh anh. Cái mặt dây chuyền không có ở đó. Bằng một cách nào đó, trong cơn hoảng loạn khi cố thoát ra khỏi Cordelia, nó chắc hẳn đã bị vỡ và rơi xuống sàn. Chuyện gì đây? Đó đã là lần thứ mười trong nhiều ngày qua khi anh cố nắm lấy bức tượng đại bàng nhỏ bằng vàng. Vek nhận ra mình đang cố gắng nhớ lại những lời cầu nguyện mà vợ đã dạy cho anh trước đây. Cô cũng là lý do anh giữ lại cái mặt dây chuyền, cũng như đồng ý gia nhập vào thứ đức tin thầm lặng của Hội Lectitio Divinitatus. Cô cũng là lý do giúp anh hoàn thành rất nhiều việc khác.

** Lectitio Divinitatus (đôi khi cũng được ghi là Lectio Divinitatus) là một cuốn sách tôn giáo được viết bởi Primarch Lorgar của Quân đoàn Space Marine Word Bearers trong cuộc Thập tự chinh vĩ đại Great Crusade vào cuối Thiên niên kỷ 30, trước khi Logar ngả về phía Chaos.*

Cuốn sách và sau đó là phong trào tôn giáo mà nó sinh ra, đã mặc nhiên công nhận việc tôn thờ The Emperor of Mankind như một vị thần thiêng liêng, duy nhất và là vị thần thực sự của nhân loại

Nhiều hình tượng, ý tưởng, thậm chí cả những lời văn trong cuốn sách sau đó đã được Hội Adeptus Ministorum – nhà thờ của Đế chế – sát nhập vào hệ thống giáo lý và nền tảng thần học của Kinh thánh Hoàng gia Imperial Creed.

Những thành viên trong Quân đoàn Word Bearers tin rằng việc nhân loại được khai sáng bằng những niềm tin từ tín ngưỡng trên trong Kỷ nguyên Indomitus sẽ mang một ý nghĩa to lớn đó chính là: cuối cùng những con dân của Đế Chế và những người hầu của các vị thần Hỗn Mang cũng đang đi trên cùng một con đường đức tin được tạo ra bởi Lorgar.

Chỉ khác là những thành viên của Quân đoàn Word Bearers đã tiến xa trên con đường ấy hơn những người đang tôn thờ thứ tôn giáo sơ khai đầu tiên mà Logar đã sáng tạo ra.*

‘Tín hiệu đang được truyền trên tất cả các tần số có sẵn,” nhân viên tín hiệu cho biết. Vek gật đầu nhưng không buồn nhìn quanh. Mình nên ra khỏi đây và đi ngủ … Đã bao lâu rồi? Một ngày? Hay hai ngày? Hay nhiều hơn? Có lẽ họ đã mất nhiều thời gian hơn thế khi bay vòng theo quỹ đạo của Uranus để hướng về phía bề mặt được mặt trời chiếu sáng của nó. Koln đã phải chọn một con đường ngoằn ngoèo để tránh xa trận chiến vẫn đang lan rộng trong những tia chớp lặng im phía sau họ. Sự hủy diệt ấy vẫn chưa tìm đến bán cầu phía bên này của hành tinh. Nhưng sự hỗn loạn đã đến trước cả chiến tranh. Từng đoàn tàu đông đúc đổ về mọi mặt trăng và các trạm không gian, kêu gào tìm nơi trú ẩn, cầu cứu – bám vào bất cứ điều gì mà họ nghĩ rằng sẽ bảo vệ được họ khỏi viễn cảnh tang thương sắp đến.

Chiếc Antius được chế tạo để phục vụ cho Oberon cùng vành đai hệ thống các nhà máy lọc dầu và tinh chế quặng của nó. Có ít tàu chạy trốn đến đây hơn do nó nằm xa hơn và với các đường ống cùng hạ tầng công nghiệp phủ kín bề mặt hành tinh, nó có ít nơi trú ẩn so với các thành phố vệ tinh và vành đai các trạm phòng thủ bao quanh Titania. Dù vậy, các hành lang lối vào hành tinh của nó vẫn bị phủ kín bởi những con tàu đang cố gắng đến gần, cố gắng cập bến, cố gắng thu hút sự chú ý của những người đang cai trị mặt trăng này. Chiếc Antius đã phải chỉnh lại hướng bay từng phút một chỉ để tránh va chạm với các tàu khác. Vek có những mối quan hệ trên Oberon, những mối quan hệ có thể tin cậy được kể cả khi mọi thứ diễn ra không như ý muốn. Nhưng giờ đây, có vẻ như những đồng minh trong quá khứ ấy chẳng còn chút giá trị gì khi cả thiên đường bên trên họ đang bốc cháy.

‘Vẫn không có phản hồi, thưa ngài,’ nhân viên tín hiệu báo cáo. ‘Tôi thậm chí không thể biết liệu họ có -‘

Lời nói của cô ấy chợt khựng lại khi đèn hiệu lóe sáng ngang qua bảng điểu khiển trước mặt và một mảnh giấy da bắt đầu cuộn ra ngoài từ một bộ sao chép dữ liệu.

‘Cái gì vậy?’ Vek hỏi.

‘Đó là sĩ quan của hệ thống canh gác hành tinh!’ một người phụ nữ lên tiếng. Cô ấy là phó chỉ huy được chỉ định bởi Koln và hiện đang nắm quyền điều hành con tàu, cô bước lên trước nhưng Vek đã vội vã ngắt lời và lặp lại câu hỏi của anh ta một lần nữa, ‘Tôi hỏi trên mảnh giấy đó viết cái gì?’

Người sĩ quan nhìn quanh anh ta rồi chớp mắt như thể có một làn sương mù bao phủ tròng mắt chỉ còn giữ được một nửa sự tập trung của cô ấy. Nhân danh các hiệp ước của Terra, cô ấy đã kiệt sức rồi, Vek chợt nhận ra.

‘Chúng ta đang được chào đón, thưa ngài Vek,’ viên sĩ quan nói. Tay cô ấy run run khi nhìn chăm chú xuống màn hình xanh nhấp nháy trước mặt.

‘Bởi chính phủ Oberon?’ Vek hỏi.

‘Không, đó là một đường truyền quân sự, từ một tàu chiến (warship) …’ Giọng cô nhỏ dần.

Vek vẫn đứng yên lặng.

‘Chuyện gì thế -‘ anh lắp bắp.

‘Họ đang yêu cầu xác nhận thông tin từ báo cáo của chúng ta rằng chúng ta đã tiếp nhận một tù nhân trôi dạt trong không gian … Họ muốn chúng ta xác nhận rằng cô ấy còn sống hay không.’

‘Con tàu đó đang ở đâu?’ Vek hỏi, trước khi viên phó chỉ huy có thể mở miệng.

‘Tôi không biết. Chắc là gần đây thôi, tôi đoán thế, vì họ có thể nhận được các tín hiệu phát ra từ chúng ta. ‘

Vek xoa tay lên trán. Đây có thể là một cơ hội… Họ cần cập bến Oberon và giải phóng hàng trăm linh hồn đang chứa trong các khoang hàng của họ. Thậm chí, Vek có thể sử dụng điều này để đổi lấy một phương tiện vận chuyển cho anh và những đứa trẻ đến Saturn hoặc đi vào sâu bên trong hệ sao.

‘Xác nhận và trả lời rằng chúng ta sẽ bàn giao tù nhân tại bến tàu ở Oberon. Yêu cầu họ cho phép chúng ta tiến vào. ‘

Nhân viên tín hiệu chớp mắt nhìn Vek rồi quay sang người lính canh gác, anh ta trông trông thật nhẹ nhõm khi vừa có một người khác thay anh ta ra quyết định. Cô ấy bắt đầu gõ lên các phím điều khiển.

‘Ngừng lại!’ Tiếng hét vang lên sau những cánh cửa dẫn đến cầu tàu. Vek quay lại khi Aksinya đang leo lên cầu thang dẫn đến sang chỉ huy. Khuôn mặt vừa có lại chút sức sống của anh đang đỏ bừng trong khi đôi mắt Aksinya đang mở to. ‘Đừng truyền đi!’

‘Sao –’ Vek ngơ ngác hỏi.

‘Đừng truyền tín hiệu đó đi,’ Aksinya lặp lại trong khi sải bước về phía trước, nhưng nhân viên tín hiệu đang gõ các phím trên bàn điều khiển với một sự tập trung bị xao nhãng bởi cơn mệt mỏi kéo dài. Aksinya nhào về phía người nhân viên nhưng khoảng cách quá xa và cô ấy đã vươn tay kéo cần truyền tin chỉ nhanh hơn một phần trăm giây trước khi Aksinya kịp giật ngược người tay người phụ nữ ấy lại. Người nhân viên kêu lên một tiếng đau đớn. Aksinya nhìn xuống cô ấy một lúc, nặng nề thở dốc rồi cô quay sang Vek và nắm lấy cánh tay anh. ‘Thưa ngài, ngài cần phải đi với tôi ngay bây giờ,’ cô rít lên vừa đủ để chỉ mình Vek nghe thấy. Nhóm thủy thủ trên cầu tàu lơ đễnh nhìn quanh, sự bối rối xen lẫn sự mệt mỏi hiện rõ trên khuôn mặt của họ.

‘Tại sao vậy?’ Vek nói, cố gắng kéo cánh tay của mình ra trong khi Aksinya đẩy anh về phía lối ra chính của cầu tàu.

‘Tại sao họ muốn xác nhận xem người tù nhân ấy còn sống hay không? Tại sao trong cái tình cảnh mà mọi chuyện đang diễn ra thế này, họ lại cố tìm kiếm chúng ta cho bằng được để chắc chắn về điều đó? ‘

Vek cảm thấy máu ở tay chân mình đông cứng lại, trở nên lạnh như băng.

Anh đang nhìn thấy phần thân to lớn của một con tàu chở hàng khác qua lớp kính thủy tinh bị che khuất lỗ chỗ của đài quan sát, gần đến mức Vek cảm thấy mình có thể nhảy qua lại giữa hai con tàu.

Rồi miệng anh há to.

Những phát đạn khổng lồ vừa đập vào chiếc tàu chở hàng bên ngoài khung nhìn kia và xé nó thành những mảnh vụn kim loại của một miếng giẻ rách đang bốc cháy khét lẹt.

‘Hãy nghe tôi!’ Mersadie hét vào cửa. ‘Tôi cần nói chuyện với chủ nhân của các người. Anh ấy cần phải nói chuyện với tôi!’. Cánh cửa vẫn đóng im ỉm.

‘Họ sẽ không nghe đâu.’, Nilus nói, ‘Hãy suy nghĩ một chút đi. Họ không có bất kì lý do gì để tin cô cũng như mọi lý do họ có thể nghĩ ra đều cho thấy việc nói chuyện với một tù nhân vượt ngục có thể là một ý tưởng rất tồi tệ.’

Mersadie không đáp mà nhìn ra cửa. Nilus di chuyển khỏi chỗ anh đang ngồi trong góc phòng và lấy tay chọc vào bát nước thịt hầm duy nhất mà người lính canh mang đến cho họ.

‘Phải có một cách nào đó để khiến họ phải lắng nghe tôi.’

‘Để làm gì?’ Nilus hỏi, nhìn lên khỏi cái bát. ‘Cô định nói gì với họ? Cô thậm chí còn chưa nói cho tôi biết tại sao cô cần gặp Rogal Dorn dù giữa chúng ta có một mối liên kết tạo thành từ những đau đớn đã trải qua cùng nhau và thậm chí giờ đây còn đang tiếp tục ở cùng trong cái phòng giam khá là thiếu thốn thế này’.

Cô liếc nhìn người navigator, nhưng anh ta đã quay lại khuấy thứ nước thịt hầm đáng ngờ đó. Khi Mersadie tỉnh dậy cô thấy Nilus đang cuộn tròn trong góc phòng giam. Nhìn bề ngoài, nó không phải là một căn phòng giam thực sự mà chỉ là một khoảng không gian nhỏ bé để chứa hàng trên con tàu. Phi hành đoàn của con tàu chở hàng đã gỡ bỏ cơ cấu khóa bên trong và bịt kín họ cùng một bát nước thịt hầm và một cái bình plastek đựng thứ nước có vị như kim loại và bụi trộn lẫn vào nhau. Cô đã ngủ bất chấp tất cả, sự kiệt sức đã bao trùm và chiến thắng cả nỗi sự hãi lẫn tình trạng bấp bênh của cô hiện tại. Thật nhân từ làm sao khi cô đã không mơ thấy gì cả. Đây là lần đầu tiên cô và Nilus nói chuyện với nhau kể từ khi họ đáp xuống chiếc Antius. Kể từ khoảng khắc nghẹt thở khi thoát ra khỏi con tàu chở tù nhân ấy, Mersadie nhận ra đây là lần đầu tiên họ thực sự nói chuyện với nhau về mọi thứ.

‘Không sao đâu,’ Nilus nói. ‘Cô có thể giữ kín những bí mật của mình. Tôi chắc rằng cô có nhiều hơn một vài bí mật như thế. ‘ Anh dừng lại, rồi ngước lên nhìn cô, đôi mắt sắc lạnh và cảnh giác. ‘Cô là một người hồi tưởng, đúng không?’

Mersadie cứng người, thận trọng.

‘Tôi đã từng là một người hồi tưởng,’ cô trả lời sau một lúc im lặng rồi khoanh chân ngồi xuống sàn. ‘Đã từng có rất nhiều người giống như chúng tôi.’

‘Nhưng tôi nhận ra tên của cô. Cô đã được nhiều biết đến, một chút nổi tiếng là đằng khác, đúng không? Cô và… Tên cô ấy là gì nhỉ? Cái cô phóng viên ảnh ấy. ‘

‘Keeler,’ Mersadie nói, cái tên trĩu nặng khi phát ra từ miệng cô. ‘Euphrati Keeler.’

‘Là vậy đó. Cả hai cô đều khá nổi tiếng, đúng không? ‘

‘Đó là công việc của chúng tôi,’ Mersadie nói và nhún vai. ‘Quan sát cuộc Thập tự chinh vĩ đại Great Crusade thay cho những con người sẽ không bao giờ có thể nhìn thấy nó.’

Nilus cười, nét mặt nhếch lên khó hiểu.

‘Nhưng, tôi có biết về những tin đồn – về việc cô đã ở gần trung tâm của mọi thứ đang diễn ra. Rất gần. Thực tế là chỉ cách vị Warmaster một bước chân.’

Mersadie chớp mắt, và…

… Cánh cửa bật tung ra, theo sau đó là tiếng bước chân nặng nề vang lên khi kim loại gõ vào kim loại. Mersadie biết đó là một Space Marine ngay cả trước khi cái bóng khổng lồ không thể tưởng tượng ấy phủ xuống cô. Cô quay lại và nhìn thấy một hình bóng mờ ảo phía sau trong một chiếc áo dài màu kem có viền màu xanh nước biển. Đó là viên tổng quản (Equerry) của Warmaster, Maloghurst, người còn được biết đến với tên gọi ‘the Twisted’, cái tên diễn tả tâm trí như mê cung của hắn cũng như những vết thương khủng khiếp đã phá vỡ cơ thể và khiến hình thù của hắn bị biến dạng một cách kỳ dị.

‘Loken, những người này là thường dân.’, Maloghurst nói.

‘Tôi có thể bảo đảm cho họ.’, Loken trả lời.

Sau đó, Maloghurst hướng mắt nhìn về phía cô …

  • Equerry là một danh hiệu trong quá khứ dùng để chỉ các phụ tá của sĩ quan cấp cao trong lực lượng Space Marine, nó là một tàn tích của cuộc Thập tự chinh vĩ đại Great Crusade vào thời kỳ đầu của lịch sử Đế chế khoảng cuối Thiên niên kỷ 30 và đầu Thiên niên kỷ 31. Những Space Marine được vinh dự lựa chọn bởi một sĩ quan cấp cao hơn sẽ được gọi là những Equerries và sẽ phục vụ trong vai trò một người đồng đội đáng tin cậy, một phụ tá đắc lực và một người bạn tri kỷ cho các sĩ quan cấp cao của Quân đoàn.

Vinh dự cao quý nhất là dành cho những Astartes được chọn để phục vụ như những Equerries cho các Primarchs, những tổ tiên về mặt di truyền của họ và là chủ nhân của các Quân đoàn Astartes. Vào thời điểm đó, theo thông lệ, các sĩ quan quân đội cấp cao từ tất cả các lực lượng cấp quân đoàn khác của Quân đội Đế chế sẽ bố trí người thực hiện vai trò tương tự bằng cách chọn một sĩ quan cấp thấp hơn làm phụ tá. Vào cuối Thiên niên kỷ 41, việc này đã không còn được ưa chuộng, nhưng một số Chapter của Astartes vẫn giữ nguyên truyền thống cũ bằng cách chỉ định một Chapter seft phục vụ riêng cho mỗi battle – brother.

Ngày nay, những người đang giữ những chức vụ giống như các Equerries ngày xưa đã không còn đi theo chủ nhân vào các trận chiến mà đóng vai trò như một người bạn tâm giao và là mối liên kết với phần người đã mất của các Astartes chủ nhân của họ.*

Cô rùng mình. Nilus đang nhìn cô, hai tròng mắt đen láy trong đôi mắt trắng sáng lấp lánh phía trên nụ cười méo mó của anh.

‘Tại sao họ nhốt anh ở Pháo đài Không tên?’ Mersadie đã hỏi Nilus.

‘Chúng dùng cái tên ấy để gọi nơi đó à?’ Anh hớp một ngụm nước thịt. ‘Hèn chi mấy phương pháp tra tấn của chúng lại trở nên dễ đoán trước như thế.’ Anh lắc đầu và lấy một thìa nước thịt khác. ‘Cái pháo đài ấy nằm ở đâu ấy nhỉ?’

‘Hành tinh Titan, tôi nghĩ thế,” Mersadie trả lời.

‘Nhưng chúng ta đang ở đâu đó bên ngoài Uranus, hy vọng rằng bằng một cách thần kỳ nào đó cái xô rỉ sét này sẽ không dính phải viên đạn nào khi chúng ta đang ở trong một trong những cuộc giao tranh không gian lớn nhất trong lịch sử.’

‘Họ đã cố đưa chúng ta đi đâu đó’, Mersadie nói, ‘Vì bất cứ lý do gì, họ đã quyết định phải chuyển chúng ta đi. Khi cuộc tấn công bắt đầu, họ hẳn đã quyết địn h– ‘

‘Thà giết tất cả chúng ta còn hơn là để một nhóm tù nhân nguy hiểm như vậy rơi vào tay kẻ thù.’ Nilus cười. ‘Họ đã đánh giá tất cả chúng ta thật cao.’

Anh lắc đầu một lần nữa và đâm chiếc thìa của mình vào bề mặt của thứ nước thịt xám xịt.

‘Tại sao anh lại trở thành một là tù nhân, Nilus?’ một lúc sau Mersadie hỏi lại.

‘Tại sao đó lại là bất kỳ ai trong số chúng ta? Tại sao chúng ta vẫn còn sống, ngay tại đây và ngay lúc này. Sai chỗ, sai cả thời điểm mất rồi’, anh lại cười, âm thanh trống rỗng và cao vút. ‘Cô thực sự muốn biết sao?’

Mersadie gật đầu.

‘Tôi từng là hoa tiêu trên một chiếc tàu chiến,’ anh nói và nhún vai. ‘Tôi thậm chí còn không phải là một hoa tiêu ưu tú, nhưng con tàu đó được gọi là Akontia và nó là – ‘

‘Một phần của Hạm đội Viễn chinh Sáu mươi Ba,’ Mersadie kết thúc câu nói.

Nilus gật đầu.

‘Đúng vậy. Đó là một trong những con tàu của Quân đội Đế chế được Warmaster ban cho vinh dự đồng hành cùng ông ta trong cuộc chiến … Một vinh dự không mang lại bất kỳ lòng trắc ẩn nào cho thủy thủ đoàn hay hoa tiêu của nó khi chúng tôi rơi vào tay những người hầu trung thành của Hoàng đế.’ Anh nói những lời cuối cùng qua hàm răng đang nhe ra.

‘Anh … Con tàu đã chạy trốn đến Hệ sol ư?’

‘Cũng không hẳn,’ anh nói. ‘Các sĩ quan đã nổi loạn sau sự kiện xảy ra tại Isstvan. Một nửa số sĩ quan quân đội và các đơn vị trên tàu là những kẻ ngoan cố trung thành đến chết với Horus. Nhưng thuyền trưởng và nửa còn lại không muốn thực hiện thêm bất kì điều gì nữa cho Warmaster. Họ đã đến gặp chúng tôi, những navigator và nói rằng họ cần sự giúp đỡ của chúng tôi để thoát ra ngoài… và chúng tôi đã đồng ý. House của tôi không thích cuộc chiến này, không muốn là một phần hay đứng về phía bên nào của nó. Vì vậy, khi chúng tôi có một cơ hội để đưa bản thân thoát khỏi cuộc chiến này, chúng tôi sẽ nắm lấy nó.’

Nilus dừng lại và run rẩy. Mersadie đang tự hỏi điều gì có thể khiến một sinh vật có khả năng giám sát thế giới phi vật chất sợ hãi đến thế.

Rốt cuộc, Nilus cũng tiếp tục: ‘Trong lần dịch chuyển tiếp theo vào warp, chúng tôi đã chiếm được con tàu như kế hoạch. Những kẻ ngoan cố kia lẽ ra phải được xử lý sạch sẽ ngay lúc ấy, nhưng… chúng đã sống đúng với cái cách chúng tôi gọi chúng. Bên trong con tàu giờ đây đã trở thành một chiến trường. Rồi những con bão ập đến và … xuất hiện cùng chúng là một thứ gì đó rất khác. Vào thời điểm đó, con tàu đã bị mất phương hướng trong những con sóng vô tận của cơn thủy triều và bị xoay vòng bởi những cơn bão đang gào thét xung quanh. Lúc đó, chúng tôi… tôi… đã ném con tàu trở lại thế giới thực tại. Và chúng tôi đã ở đây, nằm trong tầm với của thứ ánh sáng đang chiếu rọi Terra. Họ, những người đã tìm thấy chúng tôi, đã giết tất cả những người còn lại trong phi hành đoàn, tôi nghĩ thế. Mọi thứ đều đã bị quét sạch trong ngọn lửa và những tiếng la hét …’.

‘Nhưng họ đã giữ anh sống.’, Mersadie nói.

‘Đúng vậy,’ Nilus nói khi đang nhìn cô với đôi mắt đen thẵm như bầu trời lúc nửa đêm. ‘Và đừng hỏi tôi tại sao.’ Khoé miệng anh nhếch lên thành nụ cười. Biểu hiện đó phần nào khiến cô cảm thấy lạnh người hơn.

‘Còn cô, Mersadie Oliton, người hồi tưởng và là bạn của Sons of Horus, chuyện gì đã xảy ra với cô và tại sao cô nghĩ mình cần nói chuyện với Ngài Cận vệ của Terra?’

Mersaide chợt run rẩy vì sợ hãi. Đằng sau đôi mắt, cô như nhìn thấy hình ảnh một con sói đang ngoi lên từ làn nước đen tối dưới vầng trăng hình lưỡi liềm.

“Tôi –” cô ngập ngừng.

‘Cô đã nói với những người chủ của con tàu này rằng cô cần phải đến được Terra. Thứ lỗi cho tôi nếu tôi tò mò về lý do tại sao cô muốn nói chuyện với Rogal – ‘

(phần 3)

Chiến sự leo thang

Ngọn thác đổ

Hãy gửi từ này đi

Nilus bỗng ngừng lại, xoay đầu điên cuồng nhìn quanh, ánh mắt anh lướt qua các góc phòng. Nước thịt hầm rơi xuống sàn khi anh đứng dậy.

‘Có điều gì đó đang xảy ra,’ anh nói, thở một cách khó nhọc. ‘Một cái gì đó như là –’

Ánh đèn bỗng vụt tắt cũng và cả thế giới quanh họ bắt đầu rung lắc dữ dội.

Vek mở mắt. Ánh sáng và âm thanh tràn ngập khắp cầu tàu. Các vụ nổ thắp sáng khung cảnh bên ngoài các ô cửa sổ. Những mảnh kim loại từ vụ nổ của con tàu đầu tiên quét ngang và văng trúng động cơ của một con tàu khác đang chầm chậm lướt qua gần đó làm nó bị xé nát như một tờ giấy bị bắn trúng bởi một phát đạn đại bác. Con tàu bắt đầu trượt dài trong khoảng không phía trước. Chiếc Antius rung mạnh. Các vết nứt chạy dọc ngang qua khung nhìn của đài quan sát khi một làn sóng các mảnh vỡ siêu nhỏ đập vào các ô cửa kính.

‘Con tàu đã bị hư hại!’ ai đó hét lên.

‘Ở đâu?’ Vek hét lại.

‘Tôi … tôi không biết. Có thể là cửa tàu …’

‘Tìm cách gì đi.’

Vek bắt đầu gượng đứng dậy. Ngay lúc đó, sàn tàu bị hụp xuống đột ngột làm anh bị quăng mạnh trở lại sàn kim loại dưới chân. Vek có thể nếm được mùi máu trong miệng mình. Một bàn tay gầy guộc như một cái máy nắm lấy cánh tay và nhấc bổng anh lên. Vek nhìn lên Aksinya.

‘Thưa ngài, ngài cần đi cùng tôi ngay.’

‘Chuyện gì đang xảy ra vậy?’ Koln hét lên khi cô leo lên cầu thang dẫn lên buồng lái. Vị thuyền trưởng vừa được thăng cấp cách đây không lâu nhìn thật nhợt nhạt với đôi mắt mở to, lộ rõ vẻ hoảng sợ.

‘Tôi…’ viên phó chỉ huy lắp bắp. Bên ngoài khung nhìn, con tàu với động cơ vừa bị cắt nhỏ thành những mảnh vụn tiếp tục va vào mũi một con tàu nhỏ hơn đang bay cạnh nó. Một tia sáng chói mắt bùng lên rực rỡ lấp đầy khoảng trống trong màn đêm.

‘Lùi lại hết tốc lực!’ Koln hét lên. ‘Hạ đuôi tàu xuống một góc 30 độ! Làm ngay đi.’

Chiếc Antius bắt đầu rung lắc khi các động cơ và bộ đẩy phụ đẩy nó lùi lại và hướng xuống, xa khỏi đám mây hủy diệt đang mở rộng.

Vek lắc đầu. Suy nghĩ của anh đang chạy đua để kết nối ghép những mảnh ghép lại với nhau, thứ mà anh đã không nhìn thấy ngay từ lúc đầu. ‘Họ đã bắn vào chúng ta, phải không? Những phát đạn đó vốn là dành cho chúng ta. ‘

‘Họ đã bắn trượt,’ Aksinya nói trong khi cố gắng kéo Vek đi. ‘Nhưng chiếc tàu chiến đã nổ súng vẫn đang ở đâu đó ngoài kia và khả năng cao là nó sẽ không mắc cùng một sai lầm hai lần đâu, thưa ngài.’

‘Ả tù nhân…’ Vek nói. ‘Họ đã muốn kiểm tra xem ả còn sống hay không trước khi nổ súng …’

Anh giằng ra khỏi đôi tay đang nắm chặt của Aksinya.

‘Đưa bọn trẻ đến một chiếc shuttle,’ Vek nói. ‘Hãy sẵn sàng cất cánh nếu chúng ta bị bắn trúng.’

‘Thưa ngài, ngài cần phải -‘

‘Tôi sẽ phải nói chuyện với ả tù nhân ấy ngay bây giờ. Nếu chúng ta sắp bị giết bởi chính phe của mình thì ít nhất tôi cũng phải biết được lý do.’

Mersadie đang đập mạnh vào cửa phòng giam một lần nữa. Các khớp ngón tay của cô đã rớm máu.

‘Hãy nghe tôi!’ cô hét lên. ‘Các người cần phải nghe tôi nói!’

Mersadie gầm lên, một hố sâu tức giận đang mở rộng trong cô. Cô đã chấp nhận số phận của mình từ lâu. Cô đã nhận thấy hậu quả của những năm tháng đã trải qua cùng với Quân đoàn XVI và không hề đổ lỗi cho phán quyết của Đế chế dành cho mình. Cô hiểu đó là cái giá phải trả cho sự thật về những gì đã xảy ra với Horus, những gì đã xảy ra với mọi thứ. Ngoại trừ bây giờ đang có một thứ quan trọng hơn, giống như nhiều năm trước khi cô và những người sống sót khác của chiếc Eisenstein mang đến cho Dorn tin tức về sự phản bội của vị Warmaster. Cảm giác thấy thật giống nhau. Nhưng lần này, cô là người đưa tin duy nhất.

‘Đó là một sự chấn động gây ra bởi làn sóng của một vụ nổ’, Nilus nói. Anh đã thu mình vào góc phòng, hai chân co sát ngực, đầu ngẩng lên, mắt đảo quanh các bức tường khi âm thanh vang lên từ chỗ này đến chỗ khác. Anh thở dốc, vã mồ hôi. ‘Những con tàu thế này không được trang bị khiên chắn. Nếu ai đó cố gắng bắn một lỗ vào nó thì chúng ta sẽ không sống sót được lâu đâu.’

Mersadie giơ tay định đập cửa thêm một lần nữa.

Bỗng nhiên ổ khóa mở ra bằng tiếng kêu lạch cạch và cánh cửa bị kéo bật ra phía ngoài. Một người đàn ông to lớn với làn da bóng mồ hôi và cặp lông mày màu opal trên trán đang đứng ở phía bên kia cánh cửa. Một người lính canh đứng cùng anh ta, ngón tay đang co giật trên khẩu lasgun.

‘Ngươi đã mang theo điều tồi tệ gì lên tàu của bọn ta?’ người đàn ông lên tiếng. Có một nỗi sợ hãi trong ánh mắt anh ta nhưng giọng nói lại chứa đựng sự tức giận. Một tiếng nổ vang rền chạy qua các bức tường và sàn tàu bằng kim loại. Người lính canh tỏ ra nao núng.

‘Chuyện gì đang xảy ra vậy?’ Mersadie hỏi.

‘Ai đó đang cố giết người bằng cách giết tất cả bọn ta.’

Mersadie nhìn chằm chằm vào anh ta.

‘Tôi đã từng là một tù nhân,’ cô rụt rè.

‘Người ta không thường sẵn sàng giết tất cả những con tàu ngoài kia chỉ để hành quyết một tù nhân duy nhất đâu,’ anh ta gầm gừ, hàm răng cắn chặt những lời tiếp theo. ‘Ngươi đã làm gì hả?’

‘Tôi…’ Mersadie nói, rồi dừng lại, cố gắng trấn tĩnh bản thân thay cho sự bối rối đang tràn ngập trong cô. Rồi cô nhìn Vek bằng ánh mắt bình thản, đặt mình ngang hàng với anh ta và nói, ‘Đó không phải là về những gì tôi đã làm, mà là về việc tôi là ai và tôi biết những gì.’

‘Tên của ngươi …’ Vek thì thầm, lùi lại, nhìn Mersadie với ánh mắt ngạc nhiên như vừa nhận ra điều gì đó. ‘Oliton. Trong cuộc Thập tự chinh vĩ đại, trước khi trận chiến này xảy ra … ta đã nghe thấy tên của ngươi. Trong những bài báo từ tiền tuyến. Ngươi … đã từng là một người hồi tưởng. ‘

Mersadie nói một cách đơn giản: ‘Một người hồi trưởng của Quân đoàn Sons of Horus, đội quân của Horus.’

‘Hỡi ngai vàng nhân từ ơi …’ người đàn ông rít lên, lùi lại và mở to mắt. Một tiếng ầm ầm khác làm rung chuyển thân tàu. ‘Họ đang không chỉ cố giết ngươi mà họ đang cố giết cả bọn ta. Họ đang cố giết tất cả chúng ta vì đã nói chuyện với ngươi. ‘

Người lính canh đứng lắng nghe câu chuyện từ nãy giờ đột nhiên giương súng lên, ngón tay đặt vào cò súng. Nhưng người đàn ông to lớn đã kịp nện nòng súng xuống ngay trước tiếng nổ vang lên. Người lính canh vùng vẫy nhưng Vek đã giật súng khỏi tay và xô anh ta lùi lại.

‘Ả ta là cái chết,’ người lính canh thở hổn hển. ‘Ả ta sẽ khiến tất cả chúng ta bị giết.’

‘Tôi có thể giúp các anh,’ Mersadie lên tiếng khi người đàn ông quay lại đối diện với cô. ‘Tôi nghĩ tôi có thể cứu anh, cứu tất cả chúng ta. Nhưng tôi cần phải ra khỏi đây. Tôi cần phải -‘

‘Đến gặp Ngài Cận vệ,’ Vek nói. ‘Làm cách nào mà ngươi thậm chí có thể nghĩ ra một lý do để biện minh cho việc đó hả?’

‘Bởi vì tôi cần nói với ngài ấy một điều có thể cứu tất cả mọi thứ mà ngài ấy đang chiến đấu để bảo vệ.’

Người đàn ông to lớn nhìn cô trong lúc người lính canh tự đứng dậy.

Anh ấy không bất kì có lý do gì để tin mình, Mersadie nghĩ và sau đó một cụm từ Vek đã thốt ra chợt hiện lên trong tâm trí cô, thật rõ ràng và sáng to, ‘Hỡi ngai vàng nhân từ ơi …’

‘Làm sao có thể –’

‘Bởi vì tôi đang mang một thông điệp từ một vị thánh,’ Mersadie nói. ‘Từ một người bạn. Từ một người tên là Euphrati Keeler. ‘

Người đàn ông nhìn cô, miệng há to, không chớp mắt.

‘Và cô có thể giúp gì cho chúng tôi?’ anh ấy nói, Mersadie có thể nhìn thấy hy vọng hiện lên đằng sau nỗi sợ hãi. ‘Cô có thể bảo vệ chúng tôi chứ?’

‘Tôi có thể,’ Mersadie nói. ‘Nhưng nếu chúng ta chết tại đây thì không!’

Trong những bài thơ khô khan của tộc người sinh ra trong không gian void-born, kiểu thảm họa này được gọi là thác lửa. Đó là khi một con tàu phát nổ khiến các mảnh vỡ được phóng ra như những viên đạn găm vào một con tàu khác ở gần làm nó tiếp tục phát nổ và sau đó các mảnh vỡ từ con tàu thứ hai lại tiếp tục phá hủy một con tàu khác và cứ thế. Điều đó xảy ra như một dây chuyền làm lan truyền cơn thảm họa chết chóc từ nạn nhân này sang nạn nhân khác, thậm chí là cả một tập hợp đông đúc không thể đếm được số lượng trong một vài trường hợp hạn hữu. Đây là một thảm họa rất hiếm khi xảy ra do khoảng cách rộng lớn giữa các tàu khi bay cùng hướng trong không gian. Nhưng đối với các tàu đã điều chỉnh hướng đi của mình vào các hành lang xung quanh mặt trăng Oberon của Uranus thì chúng đang bay rất gần nhau. Bằng chứng là một số vụ va chạm khủng khiếp giữa những con tàu đã suýt xảy ra và chỉ có thể tránh được bằng việc dịch chuyển trong một biên độ hẹp chưa từng thấy. Vì vậy khi con tàu đầu tiên phát nổ, ngọn thác lửa bùng lên và lan rộng ngay tức khắc.

Từng đống đổ nát bị đẩy ra ngoài không gian trên những làn sóng lặng lẽ của khí gas bốc cháy. Những mảnh kim loại bị xé toạc với kích cỡ của một chiếc xe tăng va vào những thân tàu không được che chắn và đâm thủng chúng. Những đường nhiên liệu rò rỉ kéo dài, đứt đoạn. Vật liệu promethium phản ứng với plasma phát nổ dữ dội, xé rách và đốt cháy mọi thứ.

Đã có hàng trăm người chết – họ chết trong hơi thở hổn hển khi những luồng lửa cuồn cuộn đánh cắp không khí từ nơi họ đang ngủ, hoặc đang đứng, hoặc đang cuộn mình trong vòng tay của những người yêu thương để rồi bị thiêu đốt biến thành tro bụi trong các hỏa ngục vừa sinh ra, tro cốt bị rải vào khoảng không vô tận. Dòng thác lửa cứ thế trút xuống, gieo mầm những vụ nổ không dứt nối tiếp nhau từ con tàu này sang con tàu khác.

Đã có hàng nghìn người chết – họ chết khi cơ thể bị cắt rời bởi những khối kim loại méo mó hay bị đâm xuyên qua bởi các mảnh vụn sắc nhọn chọc thủng lớp vỏ tàu trong các vụ nổ có bán kính rộng hàng trăm mét.

Đã có hàng trăm nghìn người chết – họ chết và thi thể cứ tiếp tục xoay vòng trong những khối phế liệu rách nát còn lại từ thứ đã từng là tàu của họ.

Sóng xung kích làm chiếc Antius quay vòng khi nó bẻ lái và cố gắng chạy đến rìa của đám mây chết chóc đang lan rộng đằng sau. Động cơ của nó rực sáng, đột ngột ngừng hoạt động rồi sau đó ném con tàu về phía trước ngay khi một mảnh thân tàu có kích thước bằng một con Titan nổ tung tại vùng không gian mà nó vừa lao ra.

Một tổ hợp âm thanh ầm ầm tràn qua cầu tàu chiếc Antius. Đó là tiếng la hét của phi hành đoàn, một số yêu cầu mệnh lệnh, số còn lại chỉ đang hét lên trong cơn hoảng loạn. Đó là tiếng thân tàu rên rỉ. Đó là tiếng chuông báo động gào thét lấp đầy mọi khoảng trống bên dưới các tấm sàn tàu. Đèn hiệu nhấp nháy như các chòm sao có màu đỏ thẫm và hổ phách trên mọi bảng điều khiển.

Vek bám vào mép cầu thang dẫn đến buồng lái khi anh cố tự mình leo lên. Mersadie đã ở trước mặt anh. Bằng cách nào đó, cô vẫn rất bình tĩnh, gần như bình thản, như thể cô đã nhìn thấy khung cảnh hỗn loạn đang diễn ra xung quanh trước đây và giờ chỉ đang nhìn lại nó bằng một sự thân thuộc kì lạ. Vek quay người lại khi họ leo đến đỉnh. Phó thuyền trưởng Koln nhìn thấy Mersadie và chụp lấy khẩu súng ngắn được kẹp vào thành bên bảng điều khiển dành cho phi công.

‘Không!’ Vek vội la lên và chạy vào khoảng giữa Koln và Mersadie.

‘Chúng ta đáng ra nên bắn rồi ném cô ta ra ngoài kia ngay từ đầu,’ Koln gầm gừ. Đôi mắt cô đỏ ngầu, nòng súng rung rung trên tay.

Mersadie đã đứng lại, đôi mắt mở to khi nhìn vào ngọn lửa vẫn đang nhấp nháy đằng xa ngoài khung nhìn.

‘Cô ấy có thể giúp chúng ta sống sót’, Vek nói. Một đóa hoa lửa xòe cánh nở rộ ở khoảng không gian ngay bên cạnh con tàu.

‘Cô ta là nguyên nhân của tất cả chuyện này!’ Koln gầm lên.

‘Chỉ cần có một cơ hội mà cô ấy có thể giúp chúng ta sống sót thì tôi sẽ nắm lấy nó ngay.’

‘Chúng muốn cô ta chết, vậy tại sao chúng ta không đưa cho chúng thứ chúng muốn.’

‘Vì đằng nào chúng cũng sẽ giết tất cả chúng ta mà thôi’, Vek nói.

‘Tôi là thuyền trưởng của con tàu này. Tôi sẽ không -‘

‘Đây là con tàu của tôi,’ Vek nói, giọng anh đột ngột trở nên trầm xuống và đầy đe dọa. Anh nhìn thấy ánh mắt của Koln lướt qua khẩu súng của người lính canh, thứ mà anh vẫn đang cầm trên tay. ‘Đây là con tàu của tôi,’ anh lặp lại. Khẩu súng ngắn trên tay Koln rung lên nhiều hơn. Anh có thể thấy sự tức giận và sợ hãi đang di chuyển bên dưới làn da trên khuôn mặt cô. Anh nhận ra rằng thứ âm thanh lộn xộn trên cầu tàu đã tắt lịm, hầu hết các thành viên trong phi hành đoàn đều đang theo dõi những gì đang xảy ra.

Koln hạ súng xuống.

‘Bất cứ điều gì mà cô có thể làm được thì tốt nhất hãy thực hiện nó ngay đi’ Vek nói với Mersadie.

Cô lắc đầu.

‘Tôi không thể dừng việc này lại,’ Mersadie nói, vẫn nhìn chằm chằm vào khung cảnh ngoài kia, ‘Chúng ta phải chạy trốn. Hãy đưa chúng ta ra khỏi chỗ này và trốn vào vùng vịnh sunward. ‘

‘Cô đã nói là cô có thể giúp chúng tôi cơ mà?’, Vek gầm gừ.

‘Vậy anh nghĩ rằng họ sẽ dừng lại ư?’ Mersadie nói, nhìn thẳng vào Vek và có điều gì đó trong giọng nói của cô khiến anh ta im lặng. ‘Ngay cả khi chúng ta có thể thoát khỏi chỗ này thì họ cũng sẽ đuổi theo chúng ta, đuổi theo anh. Họ vừa bắn vào hàng đống tàu chở đầy dân thường chỉ để cố giết chúng ta. Họ sẽ săn lùng chúng ta bằng mọi cách ngay cả khi tất cả đang ở giữa một cuộc chiến.’

‘Điều đó thật điên rồ.’

‘Đó không phải là vấn đề lớn trong suy nghĩ của những người đã giam giữ tôi. Đối với họ, đây là chiến tranh và họ có đủ ý chí để nhìn thẳng vào nó. Đối với họ, sự vô tội chẳng chứng minh được điều gì. ‘

‘Vậy thì chúng ta xem như đã chết,’ Vek thở dài.

‘Không,’ Mersadie nói. ‘Điều đó lại không hoàn toàn chắc chắn như thế.’

Vek nhìn cô và chớp mắt, một hình ảnh chợt hiện lên trong tâm trí anh: một chiếc thuyền gỗ cũ kỹ đang trôi trên biển rộng bên dưới bầu trời phủ kín mây đen và những tia chớp ngoằn ngoèo. Đó là hình ảnh minh họa trong một cuốn sách mà anh đã đọc khi còn nhỏ – một cuốn sách thực sự được làm bằng giấy có mùi hương kỳ lạ của đất, là cánh cửa dẫn vào các thế giới của những sinh vật ngoài hành tinh đối với một cậu bé sinh ra trong trạm không gian của Uranus. Nó đến từ một thế giới xa xôi cùng với mẹ của anh và những bức ảnh trên các trang sách đã cho anh thấy những điều mà anh luôn tin là chân thật hơn những bản thu hình ảnh và âm thanh kỹ thuật số anh đã thấy ở những nơi khác: những rừng cây lá cam, cảnh mặt trời mọc từ đằng sau những ngọn núi phủ tuyết trắng và một con thuyền lênh đênh trên biển trong cơn bão…

Anh đã xem đi xem lại bức tranh vẽ con thuyền đó rất nhiều lần, nhìn chằm chằm vào nó và cuối cùng anh hỏi mẹ nó có nghĩa là gì.

Mẹ anh mỉm cười.

‘Đó là chúng ta,’ bà nhẹ nhàng nói. ‘Cuộc sống và tất cả những gì chúng ta làm là con thuyền còn biển cả là vũ trụ. Đôi khi nó thật yên bình, như một người bạn đến để mang lại cho chúng ta niềm vui và sự an ủi. Nhưng đôi khi… đôi khi nó trở thành là một cơn bão có thể lật úp con thuyền cuộc đời, bẻ gãy và nuốt chửng chúng ta. Điều đó có nghĩa là đôi khi chúng ta trở nên thật nhỏ bé và con sóng thủy triều đang đưa chúng ta đi khắp nơi không thể bị mặc cả hay uốn cong theo ý muốn của chúng ta. Đôi khi chúng ta chỉ có thể níu kéo và hy vọng rằng cơn bão sẽ nhẹ nhàng với mình. ‘

‘Cô cần gì?’ Vek hỏi Mersadie.

‘Tôi cần gửi một tín hiệu,’ Mersadie nói. ‘Anh nói rằng anh đã gửi một tín hiệu về tôi trước đây, trên các kênh quân sự?’

‘Đúng vậy,’ Vek cau mày.

‘Hãy gửi một tín hiệu khác ngay bây giờ. Gửi nó trên cùng một kênh mà anh đã truyền tín hiệu đi lần cuối cùng. ‘

Con tàu chao đảo bên dưới chân họ khi động cơ đẩy nó vào khoảng không gian ngập lửa phía trước. Một mảnh vỡ đập vào sống lưng con tàu làm boong tàu nghiêng đi.

‘Tín hiệu mà cô muốn gửi đi nên nói gì?’ Vek hỏi khi anh tự kéo mình đứng dậy.

‘Chỉ cần tên của tôi và thêm một từ khác.’

‘Từ gì?’ Vek nói khi đang nhìn lướt qua các cửa sổ ở phần mũi khi con tàu lao vào một đám mây khí gas vừa được thắp sáng bởi ngọn lửa lan ra từ nhiều vụ nổ vừa xuất hiện.

‘Loken’, Mersadie đáp, ‘Chỉ một từ đơn giản: Loken’.

CHƯƠNG 7

(phần 1)

The wall within

Kerberos

Khoảng không vô tận

Chiến hạm Battle-barge Throne of the Underworld, vịnh Trans-Plutonian

Đàn sói siết chặt hàm răng của chúng quanh Pluto khi những người con trai của Dorn rút lui. Hạm đội của Quân đoàn Imperial Fists rõ ràng đã chuẩn bị trước cho hành động lui quân lần này. Chỉ một khoảnh khắc trước đó, hàng trăm con tàu của cả hai bên vẫn đang quần nhau, trao đổi từng loạt đạn trong một vũ điệu chết chóc. Rồi đột nhiên, mọi nhà ga và pháo đài – mặt trăng do lực lượng phòng thủ kiểm soát đồng loạt khai hỏa. Những viên đạn pháo và ngư lôi tầm gần bắn ra như mưa làm rung chuyển cả một khoảng không gian và thắp sáng bóng tối bằng những cơn bão lửa sôi sục. Toàn bộ hệ thống cảm biến trên những con tàu của phe phản bội lặp tức quá tải khi bị cơn sóng năng lượng đột ngột quét qua.

Tiếp theo đó, những loạt đạn khổng lồ liên tục lao tới, lớp sau chồm lên lớp trước như những nhịp trống nối tiếp nhau. Những con tàu của quân trung thành đồng loạt bẻ lái chuyển hướng cùng một lúc, hàng nghìn con tàu tăng tốc bay cùng nhau hợp thành một đội hình hướng vào phía bên trong hệ sao.

Ánh sáng phát ra từ động cơ của những kẻ thù đang chạy trốn lấp lánh trong mắt của Horus Aximand khi chiếc Throne of the Underworld cắt ngang qua quỹ đạo của Pluto. Nó là một chiến hạm Battle-barge, tuy không to lớn bằng những con tàu khổng lồ thuộc lớp Gloriana, nhưng nó vẫn là một vị vua trên chiến trường với sức mạnh hủy diệt của mình. Bên trong con tàu là hai đại đội Sons of Horus luôn ở trạng thái sẵn sàng – đội quân tập hợp từ một nghìn kẻ giết người giỏi nhất của Quân đoàn và nó còn được trang bị những khẩu đại bác có thể đập nát bất kỳ mục tiêu thành những mảnh vụn. Lực lượng mũi nhọn do con tàu dẫn đầu dự định nhắm vào Kerberos để thực hiện một cuộc tấn công tổng lực nhằm chiếm lấy các khẩu đội pháo chính của pháo đài mặt trăng. Tuy nhiên cuộc tấn công đó bây giờ sẽ được nhường lại cho những lực lượng khác. Những tân binh của Quân đoàn và Quân đoàn IV có thể đánh chiếm các mục tiêu ấy và chịu được tổn thất của cuộc tấn công. Và sẽ luôn phải có những tổn thất như thế. Ngay cả khi thiếu đi sự hỗ trợ của hạm đội vừa rời đi thì các pháo đài – mặt trăng vẫn là những sát thủ đối với các con tàu của họ. Hàng chục nghìn con tàu sẽ phải chết để chiếm lấy chúng. Nhưng điều đó không thành vấn đề. Vấn đề quan trọng nhất là cánh cổng vào Hệ Mặt trời đã nằm trong tay họ.

Aximand có thể nhìn trước từng bước tiếp theo mà anh phải thực hiện, tất cả các giai đoạn dẫn đến chiến thắng và cách để đạt được chúng. Điều đó đối với anh thật đơn giản như cách anh hít thở hàng ngày. Aximand tính toán chúng bằng tâm trí và bằng cả linh hồn mình. Đó cũng là những phẩm chất đã đưa anh vươn lên trong Quân đoàn – bản năng tuyệt vời của một thiên tài chiến thuật bẩm sinh. Vẫn có những người khác giỏi hơn về mặt xác định và tiến hành chém giết trên quy mô lớn – mặc dù họ rất hiếm – nhưng Aximand là người duy nhất có khả năng đánh giá toàn cục cũng như cân nhắc các khả năng có thể xảy ra rồi đưa ra những quyết định để giành chiến thắng. Anh được gọi là ‘Tiểu Horus’ (Little Horus) vì anh có khuôn mặt giống với vị Primarch của mình, nhưng sự tương đồng giữa hai con người ấy còn nằm sâu bên dưới hình dáng bên ngoài, đó là Aximand có thể thích nghi với mọi loại chiến tranh kể cả những cuộc chiến khó khăn nhất. Khuôn mặt mang lại cho anh cái danh hiệu chứa đựng một nửa ý chế giễu kia đã từng bị lột sống, nhưng linh hồn của người chỉ huy bên dưới khuôn mặt ấy vẫn còn tồn tại. Khi nhìn thấy hạm đội First Sphere đang phòng thủ Pluto rút quân, Aximand đã biết được ý đồ của kẻ thù và anh phải làm gì tiếp theo.

‘Các chiến hạm Ullanor và Shardspear, tiến hành giao chiến với các tàu địch đang bỏ chạy. Hãy bắn rơi tất cả chúng. Binh lính thuộc Quân đoàn IV chuyển hướng và bắt đầu tấn công Kerberos, Charon và Hydra. ‘

Đứng cạnh Aximand, Vull Bronn há miệng hút một hơi dài đủ để cất tiếng nói. Người chiến binh warsmith kỳ cựu đã sống sót sau cuộc rút lui của Quân đoàn Iron Warriors khỏi Krade, nhưng một phát đạn bắn trúng con tàu vận chuyển cuối cùng đã khoét vào hông anh một cái hang đẫm máu.

‘Lực lượng của kẻ thù chưa bị chúng ta bẻ gãy,’ Vull Bronn nói. Phần thân được làm lại từ máy móc của anh rít lên khi các piston nén lại rồi nhả ra. ‘Những con tàu quan trọng và sức mạnh toàn hạm đội của địch vẫn chưa sụp đổ. Chúng ta nên tiếp tục giữ vững vị trí và triển khai theo kế hoạch hiện tại. ‘

‘Không,’ Aximand nói. ‘Chúng đang rút lui. Đây là trận chiến mà chúng biết chắc chắn sẽ thua. Kẻ thù đã cố gắng trụ lại càng lâu càng tốt để làm chậm chân chúng ta và bắt chúng ta phải đổ máu nhiều nhất có thể còn bây giờ chúng sẽ bỏ chạy về Terra.’

‘Những đứa con trai chó chết của Dorn không biết chạy trốn là gì cả.’ Vull Bronn nói. ‘Chúng luôn cố trụ lại trong mọi tình huống dù là vô lý nhất. Có một điều gì đó rất khác ở đây.’

‘Kẻ thù còn có những hàng rào và hệ thống phòng thủ khác để sử dụng,’ Aximand trả lời, ‘và còn hàng tỷ người sẵn sàng chết trên những bức tường phòng thủ của chúng’. Anh quay khuôn mặt từng bị lột da sang phía Vull Bronn và cười nhếch mép. ‘Những gì quân trung thành không có đó là những con tàu. Chúng không thể để mất nhiều hơn nữa. Sức mạnh của kẻ thù nằm ở hệ thống các công sự và số lượng những con người phàm tục sẵn sàng cầm súng chiến đấu. Nhưng những pháo đài thì lại không thể di chuyển được. Những con tàu là cách duy nhất để chúng điều phối sức mạnh lực lượng của mình. Nếu mất những con tàu đó thì tất cả lực lượng của chúng sẽ bị mắc kẹt lại một chỗ. ‘ Aximand quay người và bắt đầu đi về phía những cánh cửa dẫn từ cầu tàu ra thang máy chạy thẳng xuống khoang cất cánh. ‘Do đó, quân địch đang bỏ chạy bởi vì chúng buộc phải làm thể, để giữ cho những tàu của chúng sống sót. Và chúng ta sẽ không để chúng trốn thoát.’

‘Ngươi định đi đâu?’ Vull Bronn hỏi.

‘Đến nơi mà ta có thể rút kiếm ra và đâm nó thật sâu vào lưng kẻ thù.’, Aximand đáp, ‘Một phần ba số tàu của ngươi có thể tham gia cuộc săn đuổi, nhưng phần còn lại của các pháo đài – mặt trăng giờ là của ngươi. Đã đến lúc sống đúng với danh tiếng Quân đoàn của ngươi – Hãy chiếm lấy chúng ngay đi.’ Aximand có thể thấy những lời nói của mình vừa thắp lên một ngọn lửa trong đôi mắt lạnh lùng của người chỉ huy Quân đoàn Iron Warriors. Vull Bronn tất nhiên hiểu những gì Aximand đã giải thích – không có gì nghi ngờ gì về điều đó cả – nhưng cái cách mà Quân đoàn Iron Warriors đang chiến đấu giống như một con sông băng đang chảy trên những tảng đá. Họ không có thời gian cho sự thận trọng như vậy. Lực lượng Ultramarines đang tiến đến và đi cùng với chúng là tất cả những kẻ thù mà họ đã không thể đánh bại trong những năm tháng chiến tranh đã qua.

‘Ngay khi hệ thống phòng thủ chính sụp đổ, chúng ta nên đưa quân dự bị vào chiến trường,’ Vull Bronn nói và Aximand có thể thấy rằng đó là một hành động thể hiện ý định không để cho kẻ thù có cơ hội cắn trả. Tốt. Luôn có hai xiềng xích tạo nên sự kiềm hãm trong hành động của các chiến binh Quân đoàn IV đó là lòng trung thành và sự kiêu ngạo. Giờ đây sự kiêu ngạo đang phát huy tác dụng để vượt qua sự thận trọng. ‘Chúng ta nên đưa tất cả lực lượng còn lại của mình qua cánh cổng theo một kế hoạch mới có tiến độ nhanh hơn.’

‘Đồng ý,’ Aximand nói. ‘Tiến hành đi.’

(phần 2)

The wall within

Kerberos

Khoảng không vô tận

Cung điện Hoàng gia, Terra

‘Chào đô đốc.’

Su-Kassen ngước lên và nhìn thấy khuôn mặt của người lính Huscarl vừa gọi cô. Anh ta đang khoác một chiếc áo choàng đen cùng bộ lông báo tuyết phủ trên vai, tay trái anh cầm chiếc mũ giáp có gắn bờm phía trên và tay phải đặt trên cán thanh kiếm đang nằm trong vỏ. Khuôn mặt anh được cạo râu sạch sẽ, đôi mắt rắn rỏi nhưng sáng ngời.

‘Tôi đây, anh là đại úy Archamus đúng không?’ cô đáp. Cái tên vẫn còn xa lạ khi dùng để gọi người chiến binh trẻ tuổi và trong giây lát Su-Kassen như nhớ lại khuôn mặt của người đàn ông đã mang cái tên này trước đó, một người bạn của cô: râu ria xồm xoàm, không thể đọc được suy nghĩ, kiên định và cứng rắn như một vách đá granit vĩnh cửu. Cô chớp mắt và khuôn mặt đang đứng trước cô gật đầu, như thể anh ta vừa nhìn thấy ký ức đoạn ký ức hiện ra trong mắt cô.

‘Làm ơn đi cùng tôi, đô đốc,’ anh nói. Cô cau mày và nhìn quanh phòng Tổng tham mưu Grand Borealis. Các vòng tròn tạo thành từ các sĩ quan chiến thuật và các giáo sĩ cơ khí (tech-priest) không mảy may ngước lên. Ánh sáng lung linh của các hình chiếu ba chiều và tiếng ồn ào của máy móc vẫn đang không ngừng phát ra.

‘Tướng quân Kaze,” Su-Kassen nói với một sĩ quan có khuôn mặt gầy đang đứng cách khoang điều khiển của cô một bước. ‘Anh sẽ phụ trách mọi việc ở đây từ lúc này.’

Rồi cô đứng lên và đi theo Archamus cùng bước ra khỏi phòng. Su-Kassen không hề hỏi về nơi cô sắp đến hay lý do vì sao; cô hiểu Archamus đã có ý muốn nói rằng đây là lệnh của ngài Cận vệ và cô ấy sẽ sớm tự khám phá ra lý do đằng sau nó.

Hai thân hình to lớn trong bộ giáp Terminator màu vàng hổ phách khổng lồ đang đứng nghiêm cạnh cánh cửa mà cuối cùng họ cũng bước đến. Archamus dừng lại trước mặt hai người lính gác một giây, sau đó những cánh cửa dẫn vào căn phòng mở ra rồi anh bước sang một bên và ra hiệu cho Su-Kassen tiến vào trong.

Căn phòng có hình tròn và đủ rộng để cô phải mất hai mươi bước chân mới đến được phía bức tường phía đối diện. Những tấm rèm thêu dày cộm được treo trên những khung cửa sổ cao. Những quả cầu phát sáng phủ đầy bụi tạo ra một cái bóng kéo dài qua trần nhà hình vòm ở phía trên và mặt sàn trải thảm bên dưới. Không khí trong phòng có mùi khói thuốc, thứ mùi qua thời gian đã thấm sâu vào từng thớ vải. Bốn bóng người ngước nhìn lên từ chiếc bàn tròn khi Su-Kassen bước vào làm cô quỳ xuống ngay lập tức khi vừa trông thấy họ.

‘Đứng lên đi, đô đốc’, Rogal Dorn nói và cô vâng lệnh. Phía đằng sau, cánh cửa đóng lại sau lưng Archamus và cô nghe thấy tiếng vù vù ngắn ngủi của những servos khi người lính trẻ bắt đầu quỳ xuống rồi đột ngột dừng lại. Sau đó, một tràng tiếng lách cách của ceramite vang lên khi anh thực hiện động tác chào bằng cách đấm tay vào ngực mình. Su-Kassen cười thầm trong lòng. Với tư cách là một chiến binh thuộc đội Huscarls, Archamus không phải quỳ gối trước bất cứ ai trừ khi chủ nhân của anh ta cũng phải làm vậy; đó là một quy tắc mà anh vẫn đang phải tập làm quen. Và trong khoảng khắc lúc nãy, anh đã suýt quỳ xuống.

Cạnh Rogal Dorn, Sanguinius đang đứng với khuôn mặt nghiêm nghị bên dưới mái tóc vàng bồng bềnh của mình và đứng chung với họ là thân hình mạ vàng của Constantin Valdor. Vị chỉ huy trưởng của lực lượng Custodian hướng ánh mắt khỏi chiếc bàn trải đang trải đầy giấy da và gật nhẹ đầu với Su-Kassen.

‘Chào đô đốc,’ Valdor nói, giọng một âm vang trầm thấp làm Sanguinius nhướng mày.

Malcador là người duy nhất trong số bốn người không đứng lên mà vẫn đang ngồi. Vị Nhiếp chính vương của Terra chưa bao giờ trông già yếu đến thế trong mắt Su-Kassen. Mũ áo choàng của ông đang hạ xuống và cô có thể nhìn thấy lớp da đầu dưới những sợi tóc trắng lưa thưa. Các đường nét trên khuôn mặt ông trông như được khắc sâu hơn qua vùng trán nhô lên và hai hốc má hõm sâu còn lớp da thì bị kéo căng, dán chặt vào xương sọ. Su-Kassen cảm thấy một cơn ớn lạnh chạy dọc sống lưng khi Malcador ngẩng lên nhìn cô. Đôi mắt ông chất đầy một nỗi đau sâu thẳm cùng sự xa xăm vô định khiến cô nhớ đến ánh mắt của cha mình trong những ngày cuối đời.

‘Cảm ơn vì đã tham dự cùng chúng tôi ở đây, đô đốc,’ Malcador nói, giọng ông vẫn vang lên đều đều và rõ ràng như mọi khi. Ông khẽ cười nhếch mép. ‘Hãy thứ lỗi cho ta vì vẫn đang ngồi nhé.’

‘Tất nhiên rồi, thưa ngài Nhiếp chính vương’, Su-Kassen đáp.

‘Ồ, làm ơn đi, chúng ta có thể bỏ qua mớ nghi thức chào hỏi rườm rà này được không?’

Su-Kassen nhìn quanh tìm nơi vừa phát ra tiếng nói. Đó là một người phụ nữ trong chiếc áo choàng xám và mái tóc màu vàng đang ngồi xếp bằng trên nóc một chiếc tủ gỗ bóng loáng. Cô ấy đang dùng tay chống cằm. Một tư thế trông có vẻ buồn chán, nhưng đôi mắt của cô ấy sáng ngời và long lanh. Ngay lập tức, Su-Kassen nhận ra cô ấy là ai, mặc dù họ chưa từng gặp mặt trước đây. Người phụ nữ này được gọi là Andromeda-17, một trong những người Selenar cuối cùng, dòng dõi những thành viên thuộc một giáo phái sắp tuyệt chủng chuyên nghiên cứu về gen di truyền sống trên Mặt trăng. Họ là những người đã giúp Hoàng đế phát triển các Space Marines từ một đội quân nhỏ thành một lực lượng cấp Quân đoàn. Ngoài ra, cô ấy là một chuyên gia về lý luận thấu cảm và phi tuyến và còn là người của một nhóm phụ tá vô hình mơ hồ tồn tại giữa Dorn và Malcador. Su-Kassen biết đến Andromeda-17 bởi danh tiếng đang lên của cô ấy nhưng lại không thích hầu hết những gì cô nghe được. Thực tế khi cô nhìn thấy Andromeda-17 bằng xương bằng thịt, Su-Kassen vẫn không tìm thấy điều gì có thể xua tan được ấn tượng đã hình thành trong đầu mình.

‘Không sao đâu, đô đốc.’ Andromeda nói, ‘Sự khinh bỉ ngay từ cái nhìn đầu tiên là điều mà hầu hết mọi người thường làm với tôi.’

Archamus thay đổi chỗ đứng và nếu Su-Kassen không biết anh ta đủ rõ thì cô chắc hẳn sẽ nghĩ rằng người lính Huscarl đằng kia đang cố nén một nụ cười.

‘Cảm ơn nỗ lực cố gắng làm mọi thứ sôi nổi hơn một chút, cô Andromeda,’ Malcador nói và nhìn thẳng vào Su-Kassen. ‘Đây là một hội đồng, đô đốc, theo một cách cổ xưa, một hội đồng không bao gồm bất kỳ người nào khác ngoài những người đang có mặt tại đây, cô hiểu không?’

‘Thành thật mà nói, tôi không hiểu, thưa ngài. Tôi biết rằng bản thân tôi có khả năng nắm rõ tất cả các phương diện của hệ thống phòng thủ nhưng các nhân viên cấp cao khác cũng biết tất cả những chi tiết đó như tôi. Nếu đây là vấn đề về sự tin tưởng… ‘

‘Không phải vậy.’ Rogal Dorn nói, ‘Đây là một vấn đề về tầm nhìn cũng như sự phán đoán.’

Sanguinius nhìn người anh trai của mình trong một giây và sức nặng trong biểu cảm của vị thiên thần nhanh chóng chuyển thành một tia cảm xúc thô sơ vụt qua.

‘Đó không phải là sự yếu đuối, anh trai. Giới hạn của chúng ta là những gì tạo nên con người chúng ta. ‘

Su-Kassen nghĩ khi đó cô đã nhìn thấy thứ gì đó trong ánh mắt của Dorn, giống như một tia chớp bị che khuất bởi đường chân trời phía đằng xa.

‘Hai người đang nói gì thế?’ Andromeda càu nhàu, ‘Có phải hai người đang cố vật lộn với một điều gì đó không thường xuất hiện trong một cuộc chiến tranh bình thường được định sẵn theo các tiêu chuẩn đúng không?’

‘Đó là điều gì vậy?’ Su-Kassen hỏi.

‘Đó là những điều chưa được nhìn thấy hoặc chưa được hoàn thành’ Malcador nói bằng giọng mệt mỏi một cách đột ngột. ‘Chúng là những cái bóng trên tường …’

‘Tôi nghĩ cô nên tự cho phép mình tóm tắt cho chúng tôi mọi thứ đang diễn ra đi, đô đốc’, Valdor kích hoạt một máy chiếu siêu nhỏ hiển thị lên không trung tất cả các quả cầu đại diện cho các hành tinh thuộc Hệ Mặt trời.

‘Kẻ thù đang tiến qua các cánh cổng bên ngoài Pluto và Uranus như kế hoạch trước đó của chúng.’ Su-Kassen bắt đầu báo cáo, ‘Chúng cũng đã bằng một cách nào đó –’

Andromeda chêm vào, ‘bằng một thứ phép thuật phù thủy’.

‘– Đưa một lực lượng lớn lên mặt phẳng phía trên của Hệ Mặt trời. Sau đó, hạm đội của kẻ thù đã chia làm hai và tất cả các tàu của chúng đều đang tiến vào bên trong hệ sao, hướng đến chúng ta và Mars cùng một lúc. ‘

‘Tại sao chúng lại làm thế?’ Dorn hỏi.

Su-Kassen nhìn anh. ‘Để chia rẽ lực lượng của chúng ta và gây áp lực trực tiếp lên các hệ thống phòng thủ bên trong hệ sao trong lúc chúng chiếm lấy các cánh cổng bên ngoài Pluto và Uranus. Kẻ thù muốn gim chặt chúng ta xung quanh Throneworld sau đó liên tục đổ tất cả các lực lượng từ bên ngoài hệ sao vào và dùng quân số khổng lồ của chúng để áp đảo chúng ta. ‘

‘Kế hoạch của chúng liệu có hiệu quả không?’ Sanguinius nhẹ giọng hỏi.

Su-Kassen dừng lại.

‘Nó có thể hiệu quả. Vì suy cho cùng, thưa ngài, chúng có ưu thế số lượng và khả năng cơ động. Chỉ còn là câu hỏi về mặt thời gian.’ Su-Kassen ngập ngừng trong giây lát rồi quyết định nói ra sự nghi ngờ của mình. ‘Nhưng tất cả các ngài cũng như tôi đều biết rõ một việc. Đó là kẻ thù của chúng ta đang lo lắng bởi các lực lượng khác đang theo sát gót đằng sau chúng và chúng sẽ không có đủ thời gian. Trận chiến đối với chúng cần phải diễn ra một cách thuận lợi, nhanh chóng và cách phòng thủ tốt nhất mà chúng ta có thể làm lúc này là làm chậm lực lượng phản bội, buộc chúng phải nghiền nát mọi thứ trong từng bước tiến về phía trước. Sự điều động lực lượng của kẻ thù… lần này đúng là đã vượt qua những gì chúng ta đã dự tính trước. Nó thật phi thường, nhưng vẫn chưa đủ tốt. Nó sẽ không hoạt động đủ nhanh như chúng muốn.’ Cô ngước nhìn lên và bắt gặp ánh mắt của Rogal Dorn. ‘Và chúng cũng biết điều đó. Kẻ thù thừa biết rằng chúng ta có thể dùng thời gian để đánh bại chúng ngay cả khi chúng ta để thua trong những trận chiến sắp tới. Vậy nên, câu hỏi được đặt ra là – quân phản bội đang toan tính hay đang thực hiện điều gì đó mà chúng ta không thể nhìn thấy? ‘

Dorn gật đầu đồng ý.

‘Chúng có thể đang tiến quân một cách mù quáng và tuyệt vọng, hoặc có một chiều hướng khác, một mục đích khác mà chúng ta đã không nhìn thấy.’, Pháp quan của Terra lên tiếng: ‘Điều mà ta đã không nhìn thấy.’

‘Thế giới Warp’ Malcador nói một cách đơn giản nhưng Su-Kassen không thể không nhìn thấy sự mệt mỏi khi ông thốt ra những từ đó. Tất cả đều đang nhìn vị Nhiếp chính vương của Hoàng đế. ‘Đây đã luôn là một cuộc chiến trên cả hai thế giới. Một trong thế giới vật chất, thế giới của súng, đạn và máu thịt. Cuộc chiến còn lại diễn ra trong thế giới nằm ngoài thực tại này, thế giới của những sinh vật tin rằng chúng là thần thánh và đó là nơi nơi sức mạnh của kẻ thù nằm ở những phương diện khác.’

‘Đó là The Wall Without’, Dorn nói, ‘và The Wall Within.’

** Cuộc chiến tại Terra được chia làm hai chiến trường chính, bao gồm:*

– The Wall Within: chính là Hầm ngục Hoàng gia (Imperial Dungeon) nơi Hoàng đế của nhân loại đang trấn giữ, cuộc chiến chống lại các thực thể daemons đang từ Webway tràn vào Terra diễn ra ở đây;

– The Wall Without: là hệ thống phòng thủ trải dài từ những bức tường của Cung điện Hoàng gia (Imperial Palace) cho tới điểm rìa Hệ Solar do Rogal Dorn chỉ huy.

Chỉ cần một trong hai nơi thất thủ đều đồng nghĩa với việc Terra sẽ rơi vào tay Horus và không gì có thể cứu vãn nổi.

Do không thể tìm thấy từ nào đủ hay để dịch nên mình để nguyên văn tiếng Anh, bro nào có ý tưởng nào hay thì hãy comment để mình chỉnh lại nhé. Thanks!*

‘Đúng vậy,’ Malcador nói, ‘và mọi người ở đây đều biết điều đó, Rogal. Nhưng hiện tại Horus đang tiến về phía chúng ta không chỉ trong thế giới vật chất, mà còn từ trong Warp… ‘. Ông dừng lại và nhắm mắt trong giây lát. ‘Ta có thể cảm thấy nó, có thể nhìn thấy nó. Cũng giống như tất cả các ngươi hay mọi linh hồn nằm trong vòng tròn của mặt trời này cũng có thể cảm thấy. Nỗi sợ hãi và tuyệt vọng ngày càng lớn dần hơn và chúng đang tiếp thêm sức mạnh cho cơn bão phía sau lưng Horus. Đây mới chỉ là khúc dạo đầu, một sự mở màn. Cơn bão thực sự vẫn đang cuộn tròn tập hợp sức mạnh của nó và vẫn chưa phủ xuống chúng ta … ‘

Sanguinius tiến đến bên cạnh và đặt một tay lên bờ vai gầy gò của ông. Malcador thở ra một hơi và nhắm mắt lại khi một cơn co thắt lướt qua hai gò má nhô cao.

‘Và khi mọi thứ xảy ra ở thế giới thực,’ Vị Thiên thần nói, ‘chúng sẽ gây ra những tiếng vọng vào trong warp, ở sâu bên trong. Trong chiến tranh, người ta có thể giao rắc những nỗi kinh hoàng để phá vỡ ý chí của kẻ thù hoặc ươm mầm cho sự hỗn loạn. Nhưng trong cuộc chiến này, sự khủng bố do kẻ thù gây ra sẽ chỉ kết thúc bằng việc làm chúng trở nên mạnh mẽ hơn. Mọi thứ chúng làm đều phải được coi là có hai mục đích, chúng ta có thể thấy một cái nhưng cái còn lại thì không.’

‘Các ngài cũng không thể nhìn thấy sao?’ Su-Kassen nhìn Malcador và hỏi. ‘Hãy tha lỗi cho tôi, nhưng giống như Hoàng đế đáng kính của chúng ta, các ngày cũng là –’

‘Ta không thể. Có một … một bức màn bóng tối trong Warp, thứ đang gào thét, lắp đầy các khoảng không và ngày càng lan ra sâu hơn. Bóng tối đó đang liên tục đè nén mọi thứ và cứ sau mỗi khoảnh khắc thì áp lực lại càng lớn hơn … Ta không thể nhìn thấy gì cả. ‘

‘Vậy còn Hoàng đế –’ Su-Kassen lẩm bẩm,

‘Lúc này, Hoàng đế chính là The Wall Within của chúng ta. Ngài và chỉ một mình ngài có thể,’ Sanguinius nói. ‘Cha ta … Ngài ấy đang một mình đẩy lui bóng tối.’

‘Và tất nhiên là Ngài ấy có thể.’, Valdor lên tiếng, vị chỉ huy trưởng của lực lượng Custodian dường như đang run rẩy trong cơn xúc động, ‘Dù cái giá phải trả là rất lớn, thậm chí đối với Hoàng đế nhưng Ngài vẫn luôn buộc chúng phải lùi lại và bảo vệ tất cả chúng ta.’

‘Đẩy lui ư?’ Su-Kassen nói. ‘Không phải là đánh bại chúng sao?’

‘Điều đó cũng đồng nghĩa với việc đánh bại chúng thôi, đô đốc. Khi Hoàng đế vẫn còn đứng vững thì Horus không thể thắng trận chiến bên trong Warp’, Malcador nói, ‘và vì vậy hy vọng duy nhất của hắn là phá vỡ phòng tuyến của chúng ta ngoài thế giới thực tại.’

‘Vậy thì hắn sẽ phải thất bại.’ Su-Kassen trở nên kiên quyết, ‘Kẻ thù không có đủ thời gian. Chúng ta sẽ điều động các lực lượng của hạm đội chính để đánh chặn chúng và ngay cả khi phải chịu tổn thất nặng nề thì chúng cũng sẽ không thể có được chiến thắng trước khi Ngài Guilliman đến.’ Cô nhìn Dorn. ‘Tôi sẽ chuẩn bị các mệnh lệnh tái triển khai hạm đội. Tôi đang tự hỏi ngài đã đã sẵn sàng để ra lệnh cho pháo đài Phalanx tiến vào vị trí chưa, thưa ngài? ‘

Khuôn mặt của Dorn không hề biểu lộ cảm xúc gì.

‘Vẫn chưa đến lúc,’ anh khẽ nói.

‘Thưa ngài …’

‘Nó biết mọi thứ,’ Dorn bắt đầu nói và từ sự im lặng vừa nổi lên, Su-Kassen biết rằng họ đã nhắc đến vấn đề mà họ vẫn chưa tìm ra cách để giải quyết. ‘Horus biết tất cả những gì chúng ta đã nói và đã thấy. Nó biết tất cả những gì chúng ta biết về trận chiến cho đến thời điểm này cũng như nó biết những gì chúng ta không thể nhìn thấy. Và chúng ta đang nói đến Horus.’ Dorn nhìn Sanguinius và ánh mắt của hai vị Primarch chạm nhau. Một nụ cười nhẹ, buồn bã hình thành rồi vụt tắt trên môi Dorn. ‘Liệu em trai ta có trở nên kém sắc bén hơn vị thiên tài mà nó đã từng không? Hay liệu chúng ta có thể cho rằng bây giờ thì nó đã trở nên ngu ngốc và tàn bạo hơn không? ‘

‘Đó chính là câu hỏi.’, Valdor nói, ‘Theo phán đoán của tôi, chúng ta phải tập trung vào việc chống lại những thứ chúng ta có thể thấy chứ không phải là những gì mà chúng ta không thể thấy.’

‘Tôi đồng ý’, Su-Kassen nói. Dorn nhìn cô một cách sắc bén, nhưng cô vẫn giữ vững ánh mắt của mình. ‘Chúng ta đã lên kế hoạch cho trận chiến này, thưa ngài. Chúng ta đã đặt nền móng cho mọi thứ. Và ngài biết rõ hơn tôi rằng yếu tố bất ngờ trong trận chiến là điều không thể tránh khỏi. Chúng ta không được để nó dẫn dắt mình. Chúng ta phải kiên định và tập trung vào mục tiêu đã đặt ra.’

Từ phía sau cô ấy nghe thấy Andromeda-17 phát ra một tiếng khịt mũi tán thành.

‘Nếu đó là điều mà Horus muốn chúng ta làm thì sao – nó muốn ta hành động theo bản năng của mình thứ mà nó đã biết rất rõ?’

‘Tôi không thấy rằng chúng ta có sự lựa chọn nào khác, thưa ngài.’ Su-Kassen đáp.

‘Và đó là một trong những điều khiến ta lo lắng hơn bất kỳ điều gì,’ Dorn nhẹ nhàng nói. Anh nhìn lên trần căn phòng một cách xa xăm, ánh mắt như tập trung vào một nơi nào đó xa hơn, vượt ra khỏi những bức tường phủ kín thảm. Su-Kassen cảm thấy rùng mình vì ẩn ý trong lời nói của anh. Trong tất cả những năm tháng phục vụ cho vị Primarch, cô chưa bao giờ nhìn thấy anh do dự và giờ đây nó như một vết rạn bên trong con người cứng rắn và kiên định của Dorn.

‘Nó cần được phép bay ngay trước khi quay trở lại cái lồng tạo thành từ những điều thực tế cần được thực hiện’, giọng nói của Đại Hãn chợt vang lên trong đầu cô.

‘Với tất cả sự tôn trọng của mình, thưa các ngài,’ Su-Kassen cất tiếng nói, ‘Chúng ta không có sự lựa chọn nào khác để cân nhắc. Chúng ta chỉ có thể chiến đấu với cuộc chiến mà chúng ta có thể nhìn thấy và đó là điều chúng ta phải làm. ‘

‘Thấy chưa?’ Andromeda-17 nói từ bên cạnh căn phòng. ‘Tôi đã nói với các người rằng cô ây sẽ chỉ cho chúng ta nhìn thấy sự thật mà.’

‘Còn điều gì làm anh lo lắng nữa, anh trai?’ Sanguinius cau mày hỏi.

Dorn nhìn quanh bàn rồi nhìn vào vị Thiên thần.

‘Cùng một câu hỏi mà tất cả chúng ta đều đang tự hỏi mình chỉ là chưa nói ra.’ Dorn đáp rồi nhìn vào hình chiếu ba chiều và ra hiệu để nó thu nhỏ lại thành một hình cầu mà anh ta có thể xoay bằng các ngón tay của mình. ‘Horus đang ở đâu?’

Sự im lặng đã trả lời anh. Dorn đưa mắt nhìn vòng tròn quanh mình, thật chậm rãi, bắt gặp và giữ lấy ánh mắt của từng người một.

‘Chỉ vậy thôi,’ cuối cùng, anh nói. ‘Không có câu trả lời nào mà chúng ta có thể đưa ra cũng như không có giả thuyết nào đủ tốt để làm ta hài lòng.’ Anh nhìn lại quả cầu ba chiều đang treo lơ lửng giữa bọn họ và gõ phím điều khiển trên máy chiếu. Một hình ảnh gấp lại thành quả cầu đại diện cho Terra đang xoay tròn lần lượt từ phía ngày sang đêm. Nhiều vị trí được đánh dấu bằng những màu sắc khác nhau tạo thành một dải màu cầu vồng trải rộng trên bề mặt hành tinh. Dorn nói: ‘Có những vấn đề khác cần được thảo luận.’

Cuộc gặp gỡ kết thúc một giờ sau đó và những con người đang nắm quyền điều khiển Đế chế rời đi một cách lặng lẽ.

‘Đô đốc,’ Malcador gọi vọng lại khi Su-Kassen chuẩn bị ra khỏi phòng, ‘ta cần gặp riêng cô một chút.’

Phía sau cô, Andromeda-17 vừa rời đi. Su-Kassen bắt gặp ánh mắt xanh của người phù thủy gen di truyền và thấy một nỗi buồn trong ánh mắt của cô ấy – đó là nỗi buồn hay có lẽ là sự tiếc thương.

Sau đó, cánh cửa phòng đóng lại, chỉ còn cô và một ông lão, Nhiếp chính vương của Hoàng đế, một mình trong cái khoảnh khắc im lặng kéo dài ấy. Cô nhận ra một tờ giấy da mỏng đang nằm trên bàn trước mặt Malcador. Đó là một cuộn giấy từ máy ghi chép tự động, một trong những loại được sử dụng cho các báo cáo lưu trữ. Một phần của những từ được ghi trên trang giấy đã được gạch dưới bằng màu đỏ.

‘Có một điều mà cô nên biết.’, Malcador bắt đầu nói, ‘giờ thì làm ơn ngồi xuống đi, đô đốc.’

(phần 3)

The wall within

Kerberos

Khoảng không vô tận

Pháo đài Mặt trăng Kerberos, Pluto

‘Thuốc nổ phá cửa’, Saduran hét lên và một trong những người đồng đội đang đi cùng anh lao tới trước. Anh vòng qua góc tường và nhắm vào cụm pháo cannon xoay tự động được gắn vào trần nhà phía trên cánh cửa. Những chữ rune hiển thị mục tiêu sáng đỏ trong mũ. Khi người đồng đội chạy vụt qua mình, Saduran nổ súng. Từng loạt đạn tuôn ra từ khẩu bolter trên tay anh làm bùng lên một vụ nổ giữa những nòng pháo.

Lúc này, những người anh em còn sống sót trong đội đều đang có mặt cùng anh, họ nổ súng nhắm vào số vũ khí còn lại của hệ thống phòng thủ. Những khẩu pháo tự động liên tục bắn trả họ. Một cơn mưa đạn quất trúng người chiến binh bên phải Saduran và hất anh ta văng khỏi mặt sàn. Tiếng ceramite vỡ vụn giòn tan. Người lính mang thuốc nổ đã chạy được nửa đường đến cánh cửa. Chỉ còn cách mục tiêu mười bước chân, tương đương một giây chạy nước rút. Đột nhiên, một trong những khẩu pháo xoay về phía Saduran, tia nhắm của nó quét xuyên qua làn khói. Và rồi bức tượng đội mũ trùm đầu đang đứng co rúm bên cạnh cánh cửa chợt rung lên. Một đường cắt ẩn trong lớp kim loại màu đồng tách ra để lộ hình dáng một khối sắt to lớn được phủ kín bởi những khẩu súng.

Mặt đất rung chuyển một lần nữa khi một cỗ máy chiến đấu battle – automaton bước ra từ nơi nó ẩn nấp, phía sau lớp vỏ của những bức tượng. Những sợi cáp nhiên liệu kêu lên, tách rời khỏi bệ súng và tay chân nó. Khối vũ khí di động gầm vang trong giai điệu tạo thành từ tiếng bánh răng và tiếng ùng ục của luồng năng lượng vừa được nạp đầy trong lõi.

Saduran cảm thấy hai mắt mờ đi trong khoảnh khắc trái tim đập mạnh tống các hợp chất kích thích tràn ngập vào huyết quản anh.

Họ đã mất hàng giờ đồng hồ để tiến được tới đây. Hiện tại, họ đang ở sâu trong lõi pháo đài – mặt trăng Kerberos. Nơi được mệnh danh là trái tim không thể phá vỡ của hệ thống phòng thủ Pluto nhưng trên thực tế lực lượng tấn công đã chứng minh được điều hoàn toàn ngược lại. Đó đơn giản chỉ là câu hỏi về sự tổn thất. Với việc các tàu Imperial Fists rút lui vào bên trong hệ sao thì mọi thứ chỉ còn là vấn đề thời gian trước khi hệ thống phòng thủ trên bề mặt của Kerberos bị đánh chiếm. Trước đó, các tàu đánh bom quỹ đạo của Quân đoàn Iron Warriors đã đập vỡ một khối bề mặt rộng hàng km cùng loạt cơ sở hạ tầng gắn trên đó để mở đường cho những tàu đột kích đổ bộ thằng vào lõi ngôi sao, các mảnh vỡ kích cỡ nhỏ hơn vẫn đang tiếp tục tuôn ra ngoài không gian từ vết thương đang há miệng. Một nửa tàu tham gia đợt tấn công đầu tiên bị tiêu diệt hoàn toàn chỉ trong vài giây. Họ đã được chào đón bởi những khẩu súng của lực lượng battle – servitor đang chờ sẵn khi là những người đầu tiên bay xuống cái lỗ thủng chết chóc vừa được đục xuyên qua bề mặt Kerberos.

Nửa triệu binh lính đã chết.

Đó chỉ mới là tổn thất trong đợt tấn công đầu tiên. Nửa triệu binh lính con người tập hợp từ các clans lai tạp giữa những tên cướp biển không gian và bọn chuyên phá hủy tàu. Tuy nhiên, giá trị mạng sống của chúng đã được tính toán đúng mức.

Một đội terminators của lực lượng Iron Warriors được dịch chuyển thẳng vào khẩu đội súng chính đang bắn phá dữ dội khu vực đổ bộ. Dù hành động đó khiến Quân đoàn phải hy sinh hai tàu chiến cấp strike cruiser, nhưng những người con của Perturabo vẫn sẵn sàng thực hiện mệnh lệnh mà không chút do dự. Lực lượng phòng thủ điều khiển các bệ súng có kích thước to lớn như những ngọn núi vẫn đang nạp đạn và bắn liên tục khi đội terminator tiến vào và hạ gục chúng. Điều đó làm cho ngọn lửa từ phía bị thương của pháo đài – mặt trăng tắt dần và mọi thứ rơi vào im lặng. Những con tàu tấn công tiếp tục lao về phía trước trong một dòng chảy như vô tận, không gian chỉ còn tiếng vù vù khi sàn tàu đổ bộ hạ cánh trút hàng đợt binh lính vào trong lòng Kerberos.

Các đại đội Sons of Horus và các tiểu đoàn Iron Warriors gia nhập trận chiến ngay trong đợt tấn công đầu tiên. Các toán master of signal (1 cấp bậc trong lực lượng Space Marine, vai trò tương tự lính thông tin liên lạc) liên tục phân tích dữ liệu thương vong từ các cuộc giao tranh và lựa chọn mục tiêu để tấn công trong lúc các tàu gunship và ngư lôi đổ bộ đang lao xuống. Đó là những nơi quân phòng thủ đã bị suy yếu, những nơi chúng vừa rút lui hay những nơi mà súng của kẻ địch chỉ còn vang tiếng rải rác, chúng sẽ trở thành mục tiêu cho binh lính của hai Quân đoàn tiến đến như những nhát dao thọc sâu vào miệng các vết thương mà Kerberos đang mang trên mình. Saduran và những người anh em của mình nằm trong đợt tấn công thứ hai. Hầu hết tất cả đều là tân binh – những chiến binh gia nhập Quân đoàn chỉ mới vài tháng hoặc vài năm. Tuy nhiên, những ngày cuối cùng của trận chiến này đã biến tất cả họ trở thành những người lính kỳ cựu dù điều chỉ đúng với những người còn có thể sống sót sau khi trải qua nó.

Đó là một cuộc thảm sát trong những đường hầm của Kerberos. Hầu hết các lực lượng phòng thủ chưa chạy trốn cùng bọn Imperial Fists đều thuộc đám Mechanicum, chúng là những weapon servitor và những tên nô lệ máy móc đã được cải tạo lại. Từng nhóm riêng lẻ thì không thể sánh với những người lính Quân đoàn nhưng bọn chúng chiếm ưu thế về quân số và có thừa thời gian để chuẩn bị. Những ổ súng và bẫy kéo dài như vô tận chặn đứng bước tiến của quân tấn công và sự kháng cự gia tăng nhiều hơn khi họ tiến vào sâu hơn. Bọn chúng không hề có khái niệm rút lui. Có thể là do những chương trình kiểm soát đã được lập trình sẵn hay sự tuyệt vọng trước tình thế hiện tại hay sự căm thù, bất kể đó là gì thì nó cũng đã giúp lực lượng phòng thủ chiến đấu đến người cuối cùng.

Sàn và tường của pháo đài – mặt trăng rung chuyển không ngừng. Các bệ súng còn hoạt động vẫn không ngừng nhả đạn ngay cả khi những kẻ tấn công đang đổ quân thẳng vào trái tim của hệ thống. Trên khắp quỹ đạo Pluto, các anh chị em của Kerberos đã sụp đổ, chìm trong biển lửa, bị bao quanh bởi vô số con tàu, lõi của chúng bốc cháy khi Quân đoàn IV và XVI xé xác chúng từng chút một. Pluto đã thuộc về Warmaster. Vấn đề còn lại chỉ là việc nghiền nát những ngón tay kháng cự cuối cùng của quân phòng thủ vẫn còn cố đeo bám khi phải đối mặt với sự thật không thể tránh khỏi.

Ngước lên chiếc automaton đang sải bước để bảo vệ trái tim của Kerberos, Saduran chợt nhận ra rằng có lẽ anh sẽ không có cơ hội nhìn thấy chiến thắng cuối cùng của cuộc chiến.

Anh lao sang một bên khi vũ khí trên vai cỗ máy khai hỏa. Ánh sáng xanh lam vạch một đường ngang qua sàn nhà. Anh lăn tròn. Tia sáng bắn trúng hai người đồng đội của anh biến họ thành tro bụi ngay lập tức. Saduran bắn đầu bắn.

‘Thuốc nổ’ anh hét vào vox trong lúc bóp cò. Anh có thể nhìn thấy người lính đang mang khối thuốc nổ chuyển hướng chạy về phía chân phải cỗ máy.

Những viên đạn bolter đập tung tóe vào lớp giáp ngực chiếc automaton. Nó xoay khẩu sung về phía Saduran, anh có thể nhìn thấy luồng năng lượng đang sáng dần lên trong nòng súng. Đột nhiên, một vụ nổ phát ra từ bên hông cỗ máy. Saduran loạng choạng khi làn sóng va đập quét qua không khí và sàn nhà. Chiếc automaton nghiêng ngả như một gã say rượu vừa bị đấm trúng. Khói và lửa bao trùm phần hông của nó khi các đường ống đầy dầu bốc cháy bên dưới lớp áo giáp vừa bị xé rách. Tia lửa bò khắp cơ thể kim loại của cỗ máy nhưng nó vẫn không ngã xuống.

Cỗ máy từ từ đứng thẳng dậy, nòng súng tiếp tục xoay vòng tìm kiếm mục tiêu. Saduran cười lên một tràng điên dại và cảm thấy cơn giận ngập tràn trong mình. Anh giơ cao khẩu bolter chuẩn bị bắn phát súng kháng cự cuối cùng.

Đột nhiên, cỗ máy tự động dừng lại.

Phát đạn cuối cùng của Saduran vạch một tia sáng trong không khí rồi găm thẳng vào thân nó. Trong khoảng khắc ngắn ngủi chỉ bằng một nhịp tim ấy, cỗ máy đã ngừng di chuyển rồi tự đổ ập xuống đất kéo theo một âm thanh nghe như tiếng các piston dãn ra và các bánh răng ngừng quay. Saduran nhìn chằm chằm vào thứ đang hừng hực bốc cháy, nằm bất động trên mặt đất.

Trên trần nhà, các khẩu pháo cannon cũng gục xuống, nòng súng vẫn đang quay tròn theo đà quán tính trong sự im lặng đột ngột.

‘Chuyện gì …’ một trong những người lính còn sống trong đội lên tiếng, nhưng câu hỏi đã bị nhấn chìm trong một tràng tiếng lách cách và tiếng rơi ngã thình thịch. Tất cả mọi cánh cửa dẫn ra khỏi khu vực đều bật mở. Không khí bắt đầu xoay tròn và cuồn cuộn tràn vào theo cơn gió thổi qua vùng không gian trống trải. Kênh vox liên lạc xôn xao những giọng nói. Mọi hệ thống trên pháo đài – mặt trăng vừa ngừng hoạt động, tất cả các cánh cửa đều tự động mở khóa và tất cả các khẩu súng đều im tiếng.

Một tiếng nổ loảng xoảng vang lên làm rung chuyển sàn kim loại khi cánh cửa dẫn vào lõi của Kerberos bắt đầu chuyển động. Từng lớp kim loại dày hàng mét nối tiếp nhau lần lượt mở ra. Saduran nhận ra mình đang đứng lên, chậm rãi bước về phía trước.

‘Này người anh em?’ một người lính trong đội lên tiếng gọi, nhưng Saduran đã bỏ ngoài tai. Bóng tối im lặng đang bao trùm không gian phía bên trong căn phòng. Anh dừng lại ở bậc cửa, đứng im và cởi bỏ mũ bảo hộ của mình. Anh ngửi thấy không khí trong phòng tràn ngập mùi plastek bị đốt cháy cùng hàng đống dây diện bị nung chảy. Anh nhìn thấy những ánh đèn nhỏ nhấp nháy trên rìa những cỗ máy bên trong, chúng có màu xanh lam, màu đỏ và màu xanh lá cây, đang chớp tắt như nhịp thở của một sinh vật sống. Căn phòng thật rộng lớn. Saduran có thể cảm nhận kích cỡ của nó trong không gian dù mắt anh không thể nhìn xa hơn vào phần rìa bóng tối. Anh chầm chậm tiến lên, khẩu bolter hạ thấp nòng nhưng vẫn trong trạng thái sẵn sàng. Không có thứ gì di chuyển.

Một tia sáng lóe lên chia đôi vùng bóng tối trước mặt anh, cuộn lên mặt một quả cầu kim loại khổng lồ đặt ở trung tâm căn phòng.

Saduran dừng lại cảnh giác. Một âm thanh khác lạ vang lên trong không khí với một độ cao và rung động khiến anh cảm thấy răng mình đau buốt. Kênh vox bị âm thanh ấy chèn vào, trộn lẫn giữa giọng nói của các chiến binh Iron Warriors và Sons of Horus. Pháo đài – mặt trăng Kerberos đã chết và như thể một có thứ gì đó rất quan trọng cũng vừa chết theo nó…

Một vòng cung ánh sáng khác vụt lên soi rõ bề mặt còn lại của quả cầu kim loại phía trước. Lúc này, Saduran cảm thấy cơn đau nhức trong răng đã chuyển thành một tiếng rít chói tai bên trong đầu anh.

Anh thận trọng tiến thêm một bước nữa.

Một tia sáng tiếp tục vụt qua và Saduran nhìn thấy các servitor đang tự treo lơ lửng trên hệ thống cáp nối vào hệ thống. Anh dùng nòng súng thúc tới làm một trong số những cái xác bị quấn trong đám dây lùng nhùng ấy lắc lư nhè nhẹ, vũ khí trên tay chúng kêu lên lách cách.

Cảm giác như có một thứ gì đó rất quan trọng vừa chết theo Kerberos …

Ba tia sáng khác lóe lên và trong ánh sáng chói lòa màu trắng, anh nhìn thấy các giáo sĩ cơ khí tech-priest đang nằm gục trên những giàn điều khiển treo trên cao hai bên một khu rừng tạo thành từ những quả cầu kim loại nhỏ hơn. Đèn báo màu đỏ đang nhấp nháy trên bảng điều khiển.

Có một thứ gì đó vừa bị tắt đi … hay nó giống như một thứ gì đó vừa được mở chốt an toàn, cảm giác giống như một cơn bão lửa đang chực chờ bùng nổ hay một con quái vật đang rít lên từng hơi thở trong bóng tối …

Saduran cảm thấy một cơn lạnh buốt chạy khắp người. Anh xoay người và bắt đầu chạy về phía những cánh cửa dẫn ra bên ngoài phần còn lại của mặt trăng, cái ngôi sao mà họ đã phải trả giá bằng máu và thời gian để chiếm lấy, ngôi sao mà quỹ đạo giờ đây đang bị bao quanh bởi hàng trăm tàu chiến và bề mặt bị lấp đầy bởi hàng triệu binh lính. Các thành viên trong đội của anh hét lên, nhưng Saduran cũng đang gào vào kênh vox, cố gắng hét vang xuyên qua tiếng chặt và tiếng rít đang phát ra cùng lúc với tiếng ù ù bên tai anh.

Phía sau anh, những tia chớp liên tục lóe lên ngày càng dày đặc, nhuộm trắng cả căn phòng đang đặt các lò phản ứng trong một màn sáng chói mắt. Saduran nhận ra rằng đã quá trễ để có thể làm điều gì đó, những giây phút cuối cùng của cuộc đời anh đang trải dài trước mắt và cuộc chiến đã tái sinh linh hồn anh giờ đang tiến đến để chiếm lấy thân xác anh.

Màn sáng chói mắt bùng lên bao phủ khắp nơi …

Thứ ánh sáng sáng hơn cả những tia chớp và đi cùng nó là một tiếng rít cao vút mà Saduran không thể nghe thấy, chỉ có thể cảm thấy nó tràn ngập khắp người trong một khoảnh khắc như kéo dài vô tận trước khi không còn gì bất kỳ thứ gì tồn tại nữa.

(phần 5)

The wall within

Kerberos

Khoảng không vô tận

Căn cứ Bhab, Hoàng cung, Terra

‘Đô đốc …’

‘Vâng?’ Su-Kassen chớp mắt, không nhìn vào nơi Archamus đang đứng, đó là bên trong cánh cửa đóng kín dẫn ra khỏi khu phòng của cô. Cô gần như có thể cảm nhận được sự lo lắng của người lính Space Marine.

‘Vừa có một tín hiệu truyền đến,’ anh nói.

‘Tất nhiên rồi.’, cô vẫn nhìn chằm chằm vào hộp đựng khẩu súng ngắn đặt trên sàn nhà bằng đó đang mở ra. Nòng súng đục lỗ ánh lên màu xanh đen trong ánh sáng yếu ớt tỏa ra từ quả cầu phát sáng đơn độc mà cô vừa chạm vào.

Su-Kassen đang tự hỏi tại sao mình lại ở đây? Nơi cô cần ở bây giờ là khu căn cứ trong pháo đài chỉ huy. Có nhiều nhiệm vụ còn cần phải được hoàn thành. Thời gian sẽ không dừng hoặc chậm lại trong khoảnh khắc cô đứng đây. Vậy thì tại sao? Su-Kassen biết rằng bản thân cái chết chỉ là những gì đã xảy ra trong quá khứ, nó chỉ đơn giản bước đến và để lại trong chúng ta những cảm xúc hỗn loạn. Không một cái chết nào có thể thoát ra ngoài cái định nghĩa đó.

Nhưng giờ đây cô lại đang ở đây.

Archamus đã đi cùng khi cô rời khỏi phòng của Malcador. Cô bắt đầu bước đi và người lính Imperial Fist lặng lẽ theo sau. Cô không hỏi tại sao, nhưng cô cảm thấy một phần tâm trí mình như thuộc về một người khác và nó đang tự hỏi liệu có phải Dorn yêu cầu Archamus đi cùng để trông chừng cô trong lúc này hay không. Nhưng điều đó không làm cô băn khoăn quá lâu vì đã không còn không gian trống nào cho những suy nghĩ trong cô, chỉ còn những lời nói của quá khứ văng vẳng bên tai. Vì thế, cô để cho người lính Huscarl đi cùng mình và ngừng nghĩ về lý do.

Mọi thứ thật yên lặng. Những tuần cuối cùng vừa trôi qua đã lạnh lùng lấy đi sự đông đúc và nhộn nhịp của thành phố lục địa này. Không có thứ gì di chuyển bên trong đại sảnh của nó ngoại trừ những khẩu súng giật cục trên tay các weapon servitor đang quan sát mọi thứ qua đôi mắt pha lê. Ánh sáng chiếu rọi qua các cửa sổ cao của Silesian Cloister khi họ băng qua khu vực Northern Circuits.

Cô chợt nhận ra bên ngoài trời đã về đêm. Trong những ngày qua, đối với cô thời gian đã không còn mang nhiều ý nghĩa. Vì chẳng có gì thay đổi dù mặt trời có mọc lên hay lặn xuống khi tâm trí cô đang phải tập trung vào các hành tinh nằm cách xa nửa hệ sao?

Su-Kassen tiếp tục bước đi, không quan tâm con đường hay mỗi bước chân của cô sẽ dẫn đến đâu. Những nơi cô đi qua đều trống không. Cô chỉ nhìn thấy những người khác khi họ di chuyển thành từng nhóm nhỏ được hộ tống bởi binh lính vây quanh. Cô nhận ra chiếc áo choàng màu xanh lá cây – bạc của Qui-Helic Guard, áo giáp đỏ thẫm của Inferalti Hussars và bộ áo choàng màu xám – nâu đất của Cordesh Cavalry – họ là các trung đoàn của lực lượng Old Hundred được triển khai vào bên trong các bức tường mà có thể chỉ còn tồn tại trong những ngày cuối cùng đang đến của Đế chế loài người mà họ đã góp công tạo dựng. Không có bất kì thứ gì hay bất cứ ai đi lại trong Cung điện mà không có người tháp tùng, ngoại trừ những Tenebrae. Họ là đôi mắt và đôi tai của Malcador, họ quan sát và lắng nghe từ trong bóng tối, lướt qua mọi thứ như hơi thở của những luồng gió se lạnh khi họ săn tìm những lời thì thầm.

Có hàng trăm triệu người sống trong Hoàng Cung để phục vụ cho các chức năng của nó, từ những người nắm giữ các chức vụ cao cấp trong các văn phòng bureaucratic cho đến những nông nô thực hiện những công việc hèn kém nhất. Hầu hết bọn họ đều ở lại đây, tiếp tục tham gia thực hiện các nhiệm vụ quan trọng của mình để giữ cho chiếc ngai quyền lực của Hoàng đế hoạt động, nhưng những quyền lợi nhỏ nhoi nào mà vị trí của họ đã mang lại trong quá khứ thì giờ đây càng trở nên ít ỏi hơn. Tất cả các quận và các vùng đất xung quanh đều nằm trong tình trạng thiết quân luật. Lương thực, nước uống và cả thông tin bị phân chia thành từng khẩu phần hạn chế khi những đoàn tàu vận chuyển bên trong hệ sao bị buộc phải dừng hoạt động và hiện thực tàn khốc của chiến tranh, dù đang còn ở rất xa, đã hiện diện tại nơi đây. Một thị trường chợ đen vừa mọc lên trong vòng vài ngày qua. Su-Kassen đã đọc các báo cáo: một giám sát viên ghi chép cấp cao bị bắt khi băng qua chốt an ninh với một ít nước mà anh ta vừa mua được bằng những chiếc nhẫn nạm ngọc đeo trên ngón tay; một nữ tu cao cấp thuộc dòng dõi quý tộc chuyên nghiên cứu về tôn giáo, người từ chối quay trở lại khu vực cách ly, đã bước qua lằn ranh phong tỏa với một tiếng cười rồi chỉ để bị bắn hạ bởi những khẩu súng; khu vực quận chứa dữ liệu ghi chép phía bắc vẫn đang cháy sau khi một khu nhà kính chứa hóa chất phát nổ. Mọi thứ sẽ chỉ trở nên tồi tệ hơn theo thời gian, và sau đó thì…

‘Cô không sao chứ, đô đốc?’

Su-Kassen chớp mắt, nhìn lên Archamus.

Người lính Huscarl đang cúi xuống nhìn cô. ‘Chỉ là tôi không chắc mình hiểu mục đích của cô trong chuyến đi vòng quanh Hoàng cung này.’

Họ đang đi trên một cây cầu đá bắc qua khe núi giữa hai bức tường bên trong Cung điện. Một cơn gió lạnh thổi qua mặt cô. Cô chớp mắt vì sự kỳ lạ của câu hỏi và cảm thấy kỳ lạ gấp đôi khi nhận ra ai là người đang hỏi nó. Cô chau mày, không biết phải trả lời như thế nào hoặc có nên trả lời hay không.

‘Tôi xin lỗi,’ sau một lúc, Archamus nói. ‘Tôi không nên làm gián đoạn suy nghĩ của cô.’

Rồi cả hai chìm vào im lặng.

Họ tiếp tục bước đi, xuyên qua những đoạn hành lang hẹp cọ vào giáp vai của Archamus, những đoạn khác đủ rộng để cả một trung đội lính có thể hành quân theo đội hình ngay phía sau họ. Hầu hết đều tối tăm, được thắp sáng bởi những ngọn đèn tán xạ hoặc không gì cả; nhiên liệu và năng lượng, giống như mọi thứ khác, là một nguồn tài nguyên mà giờ đây cần phải được tích trữ và sử dụng một cách cẩn trọng. Tất cả các hành lang và không gian đều trống rỗng, vang vọng tiếng bước chân của hai người.

Nửa giờ sau, Su-Kassen nhận ra rằng họ đã quay lại con đường vừa đi qua vài lần. Một lúc sau, cô cuối cùng cũng phải thừa nhận với bản thân rằng cô không biết họ đang ở đâu. Như thể để trả lời cho sự thật đó, họ bắt gặp một cầu thang xoắn ốc bằng đồng và bắt đầu leo lên. Archamus không cố gắng chỉ đường cho cô mà chỉ im lặng theo sau. Cuối cùng, Su-Kassen nhận ra những bước chân của cô đã đưa họ trở lại khu căn cứ Bhab và cô thấy mình dừng lại, đang đứng nhìn chằm chằm vào khẩu súng ngắn.

‘Chúng ta luôn phải quay trở lại cái lồng của mình…’ cô lẩm bẩm với chính mình. Bên kia căn phòng, Kelik vỗ cánh, khuấy động bộ lông vũ của nó để trả lời cô.

‘Cô có cần gì không?’ Archamus hỏi.

‘Không gì cả,’ Su-Kassen nói, vẫn không quay lại. ‘Tôi chỉ cần một vài giây thôi.’

Cô nhận thấy những vết xước trên phần bảo vệ cò của khẩu súng, kim loại màu bạc lộ dưới lớp sơn màu xanh đen. Hàng trăm bàn tay bọc giáp đã từng cầm lấy báng súng của nó và tạo nên những vết xước đó khi các ngón tay của họ cuộn tròn quanh cò súng. Bản thân bộ phận bảo vệ cò súng khá lớn, nó đã được mở rộng để vừa với ngón tay được bọc trong lớp giáp void – armour. Cô tự hỏi đã có bao nhiêu người gọi nó là khẩu súng của mình? Và bao nhiêu người đã chết khi đang còn cầm nó trong tay?

Cô nhìn vào khoảng không trống trải của lớp phủ nhung bên cạnh khẩu súng, khoảng trống lõm xuống dành cho người anh em sinh đôi của nó. Cô sờ vào, như thể những ngón tay của cô sẽ tìm thấy thứ gì đó trong khoảng trống trước mặt mà mắt cô không thể nhìn thấy.

‘Ta rất tiếc,’ Malcador nói. ‘Chúng ta chắc hẳn đã có thông tin này được một thời gian. Thậm chí là vài năm, nhưng việc liên kết nó với những điều khác đã không bao giờ được thực hiện. ‘

Su-Kassen không rời mắt khỏi cuộn giấy da trên tay. Cô nhận ra nó rất mỏng, đủ để ánh sáng xuyên qua, làm những chữ in màu đen bằng máy dường như đang trôi trên bề mặt tờ giấy. Thật mông lung, thật… mơ hồ.

‘Tại sao lại là lúc này?’ cô nghe bản thân mình tự hỏi. Sau đó, cô ngước nhìn lên Malcador và bắt ngặp đôi mắt của ngài Nhiếp chính vương cũng nhìn chằm chằm vào mình.

‘Đại Hãn đã đưa ra một yêu cầu đặc biệt, chính xác hơn là một mệnh lệnh, rằng bọn ta bằng mọi cách phải tìm ra được điều gì đó, bất kể điều đó là gì. Ngài ấy nghĩ rằng việc này là rất quan trọng và nếu câu trả lời đang nằm đâu đó ngoài kia thì cô chắc chắn phải được biết. Ta đã đồng ý với Đại Hãn. Bây giờ hơn bao giờ hết là lúc mà mỗi chúng ta phải chắc chắn về bản thân mình. ‘

Su-Kassen cúi xuống lại tờ giấy da, cô nhìn vào những dòng chữ được tô bằng một dòng mực đỏ ngay ngắn.

‘… Kết quả phân tích các mảnh vỡ còn sót lại xác nhận tàu chiến Thunder Break đã bị phá hủy hoàn toàn trong nỗ lực cố gắng chạy trốn khỏi Hệ sao Isstvan. Dựa vào các chỉ dấu mệnh lệnh trong cuộc binh biến, các phần tử phản bội trong thủy thủ đoàn đã nổi loạn dẫn đến việc con tàu bị mất toàn bộ năng lực và bị phá hủy sau đó bởi những khẩu súng chính của những con tàu phản bội khác. Các dấu hiệu ngoại vi khác cũng cho thấy thuyền trưởng của con tàu đã ra lệnh cho nó tách khỏi ‘lực lượng’ của Horus.’

‘Tôi…’ Su-Kassen ngập ngừng và cảm thấy một cơn da tê dại thấm vào da thịt. ‘Tôi cần quay lại khu chỉ huy của mình.’

‘Tất nhiên rồi,’ vị Nhiếp chính vương nói và đã đứng lên trước khi cô có thể phản đối. Nỗ lực ấy khiến một cơn đau nhói lướt qua mặt Malcador. Rồi ông cùng cô bước ra cửa, tựa vào cây gậy của mình trong từng bước.

‘Tôi cảm thấy thật sai trái,’ Su-Kassen nói khi họ bước đến cánh cửa và những bản lề của nó mở ra. Malcador dừng lại và nhìn thẳng vào cô. ‘Đây chỉ là một trong số hàng nghìn, hàng chục nghìn báo cáo tổn thất nơi tuyến đầu. Sẽ có những người khác, thưa ngài Nhiếp chính vương. Ai biết được có bao nhiêu triệu người đang mong ngóng, chờ đợi những tin tức mà giờ đây có thể đã mãi mãi mất tích trong dòng lịch sử. Và điều đó thật sai trái. ‘

Malcador gật đầu.

‘Chiến tranh đã biến những thất bại đơn giản nhất của chúng ta cũng trở nên thật tàn khốc, đô đốc.’

‘Vâng,’ Su-Kassen nói. ‘Đúng vậy, thưa ngài.’

Cô nhấc khẩu súng ngắn ra khỏi hộp. Trọng lượng của nó, thứ đã trở nên quen thuộc với cô giờ đây lại làm cô cảm thấy khác. Cô nhìn vào khẩu súng đang nằm ngay ngắn trong lòng bàn tay của mình.

Thuyền trưởng Khalia Su-Kassen Hon II; tình trạng: tử trận, địa điểm: hành tinh Isstvan. Cô biết đó là những gì mà mình sẽ đọc được khi bản ghi chép được cập nhật. Và đó là một kết thúc thật đơn giản cho một cuộc đời.

‘Đô đốc, tần số các tín hiệu đang tăng lên hướng về khu vực Vermillion – Aleph – Four.’ Archamus nói, ‘Đài chỉ huy đang yêu cầu sự hiện diện và phản hồi từ cô.’

Su-Kassen lấy băng đạn hình trụ ra khỏi hộp, mở khóa nòng và lắp nó vào khẩu súng. Chỉ với một chuyển động trôi chảy duy nhất, khẩu súng đã sẵn sàng, chốt an toàn đã được mở. Một khi bóp cò, một trận bão các mảnh kim loại sẽ xé toạc bất cứ thứ gì trong bán kính hai mươi bước chân thành một đống phế liệu rách nát. Đó quả thực không phải là một cách chết gọn gàng cho lắm. Su-Kassen nâng khẩu súng lên. Trong tâm trí, cô như thấy Khalia nhận lấy người anh em của nó từ tay mình, cả khoảng khắc im lặng lúng túng của cả hai khi cô cố tìm điều gì đó để nói còn con gái cô thì cố gắng tìm cách đáp lại.

‘Đô đốc …’

Cô nhìn quanh căn phòng đang phủ đầy bóng tối, đóng chốt an toàn lại và hạ súng xuống.

‘Tôi cần cái thắt lưng và cái bao đựng súng ở trên cửa. Làm ơn lấy chúng cho tôi. ‘

Archamus chớp mắt một cái rồi làm theo lời cô. Trọng lượng của khẩu súng ngắn giờ đây đang tỳ lên đùi Su-Kassen khi cô bước ra khỏi phòng và leo lên cầu thang trở lại phòng chỉ huy của căn cứ Bhab.

‘Ta rất tự hào về con,’ cuối cùng Su-Kassen cũng tìm ra điều mình muốn nói. Khalia đang quan sát khẩu súng trong tay, thứ vũ khí đã ở cạnh mẹ cô nhiều thời gian hơn cả chính bản thân cô. Trong khoảng khắc ấy, Su-Kassen đã nghĩ rằng con gái mình sắp nói điều gì đó. Và rồi, Thuyền trưởng Khalia Su-Kassen Hon II đứng nghiêm và cúi đầu.

‘Đó là vinh dự của tôi, thưa đô đốc,’ Khalia Su-Kassen Hon II nói bằng một giọng hoàn hảo theo đúng nghi thức của sĩ quan.

Su-Kassen kích hoạt lại kênh vox và liên kết dữ liệu trực tiếp của mình. Các tin nhắn và các lớp mệnh lệnh bắt đầu liên tục vang lên văng vẳng bên tai cô. Cô tắt chúng đi rồi nhìn quanh tìm Archamus. Người lính Space Marine chắc hẳn đã theo dõi luồng liên lạc và phân tích tình hình trong lúc đợi cô.

‘Hãy cho tôi biết tình hình hiện tại một cách chính xác nhất,’ Su-Kassen nói.

‘Hạm đội First Sphere đã bắt đầu cuộc phản công tại Cổng Khthonic.’ Archamus đáp, ‘Vương miện xung quanh các mặt trăng của Pluto đang rực cháy.’

CHƯƠNG 8

(phần 1)

Quy tắc của cuộc tàn sát

Kết thúc một bổn phận

Lời thề ngay lúc này

Chiến hạm Strike Frigate Lachrymae , Pluto

Hạm đội Imperial Fists quay trở lại quỹ đạo của Pluto trong lúc vành đai bao quanh hành tinh vẫn còn chìm trong biển lửa. Dòng chảy của các mảnh vỡ vừa nguội đi lan ra từ các điểm tử thần, nơi từng tồn tại năm mặt trăng của nó. Những con tàu của phe phản bội tiếp tục phóng ra từ Warp qua Cổng Khthonic, rồi đâm thẳng vào bức tường đổ nát đang nằm chắn ngang với một tốc độ đủ lớn để xé nát thân tàu và làm lóe những đốm sáng ngắn ngủi khi các lò phản ứng của chúng bị quá tải. Trong số hàng nghìn con tàu được cử đến để chiếm lấy hành tinh nằm ngoài cùng hệ sol cùng với cánh cổng của nó, vẫn còn hàng trăm chiếc sống sót và đang cố gắng vùng vẫy, cào xé trong vùng không gian tối tăm đang thiêu đốt mọi thứ.

Hạm đội của Sigismund tiến vào vùng không gian chết và bắt đầu cuộc săn. Họ di chuyển theo đội hình kim cương với những con tàu có tốc độ nhanh nhất ở phần mũi và theo sau là những người chị em to lớn còn lại. Đó là một đội hình thường khiến các con tàu dễ dàng bị tiêu diệt trong hầu hết các trận chiến, nhưng giờ đây họ đang phải chiến đấu trong một chiến trường hỗn loạn, chất đầy tàu địch bị thương và đang nằm phân tán khắp nơi. Ba chiếc Three Sisters of Spite bay ở vị trí dẫn đầu, mỗi chiếc được chỉ huy bởi một trong ba sĩ quan cao cấp của hạm đội First Sphere: Persephone đang chở Fafnir Rann và đội Assault Cadre của anh ấy, trong khi Ophelia nằm dưới quyền của Boreas – First Templar và là trung úy của Sigismund. Cuối cùng là chiếc Lachrymae, chiến hạm của Sigismund kể từ khi anh nắm quyền chỉ huy hệ thống phòng thủ bên ngoài hệ sao. Bằng tốc độ nhanh hơn tất cả những người họ hàng đang bay cùng, chúng là những con tàu đầu tiên tiếp cận chiếc battle cruiser đang bị thương của địch mang tên Fire Gorgon. Động cơ của nó đã bị hư hỏng, lớp khiên chắn yếu ớt còn lại bị bẻ gãy dưới họng súng của hai chiến hạm Ophelia và Persephone, con tàu cố gắng chống trả những kẻ giết người đang tiến đến bằng các khẩu đội súng còn hoạt động được. Nhưng chiếc Lachrymae đã bắn một loạt ngư lôi nhắm vào bên sườn trống trải của nó. Chiếc battle cruiser đang hấp hối bốc cháy trong một tia sáng rực rỡ cuối cùng trong khi bộ ba Three Sisters of Spite băng qua khoảng không đầy những mảnh vỡ của vụ giết chóc và tiếp tục nã đạn vào nạn nhân tiếp theo của chúng.

Theo sau họ là hạm đội Imperial Fists, họng súng hướng ra và không ngừng khai hỏa. Có rất nhiều mục tiêu ở ngoài kia và họ ở đây không phải để chiến đấu như thường lệ mà là để tàn sát kẻ thù.

Trên cầu tàu chiếc Lachrymae, Sigismund cảm nhận được nhịp điệu sôi sục từ những khẩu súng và trái tim anh đang hòa nhịp cùng nó. Dù bản thân không phải là một sinh vật được tạo thành từ cảm xúc nhưng vẫn có rất nhiều người nhìn anh bằng ánh mắt kính sợ, một số còn nghĩ rằng anh là một người hiếu chiến được thúc đẩy bởi lòng nhiệt thành với chiến tranh: một chiến binh cuồng tín sinh ra trong cuộc Thập tự chinh vĩ đại. Tất cả chúng là hiện thân của anh trong mắt người khác. Nhưng thực tế, Sigismund là một chiến binh được rèn dũa qua thời gian bởi điều cốt lõi duy nhất là mệnh lệnh từ vị Primarch của mình. Trong quá khứ, anh từng là một con người khác, con người được tạo thành từ nhiều cơ hội hiếm hoi cùng những khoảng khắc may rủi – một cậu bé trôi dạt qua các trại mồ côi, đủ lanh lẹ và nhanh nhẹn cũng như đủ cứng cỏi để chịu đòn từ những đứa trẻ khác nhưng không bao giờ để chúng bẻ gãy ý chí của mình. Bằng cách đó, cậu bé ấy đã sống sót trong nhiều năm sau khi cha mình chết vì bệnh bụi phổi. Để rồi được tái sinh một lần nữa, được ban cho sức mạnh và mục đích cũng như một lý tưởng để theo đuổi đến cuối đời. Sigismund đã được hun đúc để trở thành một thanh kiếm, thứ vũ khí sẽ định hình mọi thứ xung quanh bằng phần lưỡi sắc nhọn của nó. Đó là mục đích mà anh sẽ theo đuổi đến tận cùng của thế giới cho đến khi lưỡi kiếm của anh bị cùn đi còn cánh tay thì không thể theo kịp sức mạnh của ý chí.

Mục đích đó không đòi hỏi Sigismund phải cảm nhận mà chỉ cần anh tiếp tục tiến lên phía trước. Đó là ý chí chứ không phải sự cuồng bạo, động lực làm di chuyển thế giới của Sigismund như một ngọn lửa lạnh lẽo bị trói buộc bởi hàng lớp xiềng xích. Ngay cả khi sự hổ thẹn bao trùm bản thân, anh vẫn giữ vững đức tin của mình. Nhưng anh không thể chối bỏ sự thật rằng khoảnh khắc này đang hát lên một khúc hợp xướng trong linh hồn anh, nó là kết quả mà anh đã chờ đợi sau khi nếm trải từng chút một sự cay đắng của việc hy sinh để bảo vệ những điều to lớn và quan trọng hơn.

Sự báo thù thuần khiết lấp đầy Sigismund một cách chính đáng khi anh đứng nhìn những con tàu của kẻ thù bốc cháy và tan ra thành từng nguyên tử. Nhưng nó cũng thật lạnh lẽo, anh cảm thấy linh hồn mình bỏng rát như vừa chạm vào một khối băng. Rồi anh liếc nhìn một sĩ quan và ra hiệu mở kênh vox đến toàn hạm đội.

‘Nhân danh những vì sao đã chết, hãy thiêu rụi tất cả kẻ thù của chúng ta’.

Lưỡi gươm của Sigismund – những con tàu Imperial Fist – lập tức tuân lệnh chủ nhân của chúng. Hàng loạt ngư lôi phóng ra gieo rắc sự chết chóc vào tàu của quân phản bội đang trôi dạt giữa đại dương các mảnh vỡ. Những phi đội ném bom từ các chiến hạm battle barge cất cánh lao vào bóng tối, bay lượn xuyên qua đám mây tạo thành từ đá và vụn kim loại. Họ phát hiện con tàu thuộc lớp fleet carrier của địch mang tên Synobarb đang chao đảo trong đống đổ nát của các tàu hộ tống xung quanh. Mũi tàu bị chặt đứt khỏi phần thân nhưng nó vẫn đang cố gắng thắp sáng lại động cơ của mình. Từng phi đội bổ nhào thẳng vào tàu địch, mục tiêu của họ là các lỗ hổng hai bên sườn đang mở toang làm lộ ra những phần cấu trúc quan trọng bên trong, toàn bộ lượng bom mang theo được thả vào sâu trong lõi của con tàu. Những quả bom melta phát nổ xé toạc lớp khiên chắn bảo vệ các lò phản ứng. Dòng plasma tuôn ra ngoài không gian một cách dữ dội, đốt trụi phần xác tàu không đầu và chọc xuyên qua đống kim loại rách nát còn lại bằng những lưỡi lửa khổng lồ.

Nhưng một vài tàu chiến của quân phản bội vẫn còn đủ tỉnh táo và hỏa lực để kháng cự lại cuộc phản công. Năm chiếc tàu chiến strike tinh nhuệ của lực lượng Templar sơn màu đen – vàng bay xuyên qua vùng không gian đầy những mảnh vỡ do Kerberos để lại khi săn lùng hai chiếc tàu frigate của Quân đoàn Iron Warriors mà không ngờ rằng chiến hạm cruiser to lớn Barb of Nostramo đang chờ đợi họ. Nó đã chiến đấu trong cuộc nội loạn của chính mình trong nhiều năm kể từ khi sự kiện phản bội đầu tiên nổ ra để rồi giờ đây thủy thủ đoàn và chủ nhân của nó chỉ trung thành với sự thù hận bất chấp mọi thứ của chính họ.

Lợi dụng việc dấu hiệu nhiệt từ lò phản ứng bị che lấp bởi tiếng vọng của các mặt trăng đã chết, Barb of Nostramo nhẹ nhàng ẩn vào lớp vải liệm tạo thành từ các thiên thạch xung quanh, im lặng chờ đợi và chào đón các tàu của Quân đoàn Imperial Fists bằng một đám mây những tàu đột kích lao ra từ bên trong nó. Những toán quân địch trong màu áo giáp đen tuyền như bầu trời nửa đêm tràn vào các tàu Imperial Fists. Chỉ có hai chiếc trốn thoát. Những con tàu còn lại bị giết đến từng inch một, sàn tàu ngập trong tiếng la hét của những người ngã xuống, các khoang và hành lang chìm vào bóng tối khi nguồn điện bị cắt. Một vài chiến binh Imperial Fists đã chiến đấu đến hơi thở cuối cùng trước khi gục ngã, những tiếng la hét đã im bặt còn màn đêm xung quanh bừng sáng với những đôi mắt đỏ hoe và tiếng cười của quân thù.

Phía bên kia chiến trường, hơn hai mươi chiếc frigate của lực lượng Saturnine Void Cohort đã cắt sâu vào vùng không gian giữa Pluto và cổng Khthonic, họ bắt đầu phóng những luồng ngư lôi nhắm vào những kẻ địch đang tìm cách bỏ chạy.

Xuyên suốt cuộc tàn sát, ba chị em Three Sisters of Spite liên tục di chuyển và giết chóc, chúng dần tách rời nhau để mở rộng phạm vi chiến đấu và tìm kiếm con mồi. Họ không được chần chừ, vào thời khắc này tất cả vùng không gian xung quanh đã trở thành vương quốc của họ và nguyên tắc duy nhất còn tồn tại là tất cả kẻ thù phải bị tiêu diệt.

Horus Aximand nghe thấy thân tàu chiếc Throne of the Underworld rên rỉ khi nó chuyển hướng. Hơi nước và chất lỏng phun ra từ các đường ống bên trên khi sức kéo của động cơ ép vào các đinh tán và cắt rời các mối hàn. Lớp void shield của nó chớp tắt rồi bừng sáng trở lại khi những mảnh vỡ từ vụ nổ của các mặt trăng va vào chúng.

‘Tìm kiếm và xác định vị trí của kẻ thù,’ anh gầm gừ vào vox trong lúc bước qua ngưỡng của dẫn vào buồng dịch chuyển. ‘Ta sẽ moi từng tên ra khỏi bóng tối và xé xác tất cả chúng.’

Chiếc Throne of the Underworld và hạm đội đi cùng đã mở hết công suất trong lúc đuổi theo những con tàu của Imperial Fists đang chạy trốn khi các mặt trăng của Pluto phát nổ. Và rồi những con tàu của quân trung thành đã chuyển hướng, vẽ một vòng cung tuyệt đẹp trên đường trở lại tinh cầu nằm ngoài cùng hệ Sol. Một vài chiếc trong số chúng đã chạm trán với đoàn tàu của Aximand nhằm mục đích làm họ chậm lại để lực lượng của Sigismund có đủ thời gian tấn công vào khu vực hỗn loạn đang bao quanh Pluto. Mọi việc đã diễn ra đúng như thế. Tuy cái giá phải trả là sự hy sinh của những con tàu Imperial Fists được gửi đến để đánh lạc hướng, nhưng kế hoạch ấy đã thành công. Pluto giờ đây là một vùng đất chết, một đống đổ nát được tạo thành từ tro bụi của những tàu tấn công thuộc lực lượng Aximand và những mảnh vụn còn sót lại trên quỹ đạo của nó.

Nhưng chuyện đó sẽ kết thúc ngay bây giờ. Aximand sẽ bắt những đứa con trai của Dorn phải trả giá bằng máu và anh sẽ thực hiện điều đó bằng chính đôi bàn tay của mình.

‘Tìm tàu chỉ huy của bọn chúng cho ta,’ anh ra lệnh qua vox. Xung quanh anh, một nhóm các chiến binh kỳ cựu thuộc đại đội dưới quyền đã sẵn sàng khi các cỗ máy đặt trên trần và sàn của buồng dịch chuyển bắt đầu tỏa ra những vòng cung ánh sáng. ‘Tìm Sigismund cho ta.’

Một cơn bão lửa cuồn cuộn ập đến nhấn chìm chiếc Lachrymae khi nó đang lướt qua xác một con tàu chiến gần như bị xé làm đôi. Hệ thống quét Auspex của con tàu không có đủ thời gian để tìm ra vị trí của kẻ thù trước khi những tấm void shield sụp đổ. Đạn trọng trường giáng từng nhát búa đập vào hai bên sườn tàu, lớp giáp của nó bị vặn xoắn và vỡ nát dưới từng đợt lực cắt khổng lồ. Một khối cầu plasma đường kính hàng trăm mét bắn trúng khu vực động cơ và biến một nửa trong số chúng thành vụn kim loại và khí gas. Con tàu bắt đầu xoay tròn, lửa và sắt tràn ra thành từng dòng phủ kín khoảng không gian xung quanh nó. Trên cầu tàu, Sigismund cảm thấy những vụ nổ làm rung chuyển mặt sàn. Ánh đèn báo động sáng đỏ mọi nơi còn thủy thủ đoàn thì đang gào thét các thông báo trong lúc thân tàu rít lên một cách ghê rợn.

‘Các khẩu đội súng từ chín đến mười lăm đã bị phá hủy … ‘

‘Sức mạnh động cơ còn lại ở mức ba mươi lăm phần trăm …’

‘Hệ thống cân bằng không hoạt động …’

‘Các tổ máy phát điện cho hệ thống tấm void shield đã bị tắt …’

‘Chúng ta không còn lớp khiên chắn nào nữa!’

‘Thưa chỉ huy,’ một sĩ quan tín hiệu kêu lên, tay anh ta đang nắm chặt mép một bảng điều khiển, đèn báo động nhuộm đỏ khuôn mặt, ‘Thưa ngài, có một tàu địch đang tiến về phía chúng ta với tốc độ nhanh. Chưa thể xác định nó thuộc lớp tàu nào nhưng kích thước của nó rất lớn. Ngay lúc này, nó đang phóng tàu đột kích để tấn công.’

‘Kích hoạt hệ thống báo động chính trên toàn tàu.’, Sigismund ra lệnh, ‘Tất cả hãy chuẩn bị để đẩy lùi đợt tấn công của địch.’

‘Phát hiện dấu hiệu Etheric tăng vọt!’

Tiếng thông báo cất lên chỉ một giây trước khi một luồng sáng cuộn tròn trong không khí đột ngột xuất hiện phía khu vực trên đài chỉ huy. Những người lính Templars đang đứng rải rác khắc cầu tàu bắt đầu chạy về cùng một phía. Sigismund vẫn kịp nâng thanh kiếm của mình lên khi ánh sáng và bóng tối đảo ngược cho nhau còn thời gian như đóng băng lại. Một cột sáng chói mắt hiện ra, nối liền sàn và trần tàu rồi tiếp tục lan tỏa từng vòng ánh sáng ra xung quanh. Anh nhìn thấy những hình dạng lờ mờ đang đứng bên trong cột sáng, thứ hình dạng khổng lồ của kim loại kết hợp với cái chết. Sau đó, tất cả chợt biến mất, chỉ còn tiếng súng gầm vang xuyên qua bóng tối vừa phủ xuống khi binh lính của Quân đoàn Sons of Horus tràn ra ngoài.

(phần 2)

Quy tắc của cuộc tàn sát

Kết thúc một bổn phận

Lời thề ngay lúc này

Sigismund tiến lên phía trước, thanh gươm trong tay sáng lên, trên môi thì thầm những lời thề xưa cũ. Lưỡi kiếm của anh lấy đi mạng sống đầu tiên của Quân đoàn Sons of Horus bằng cách đâm thẳng vào cổ họng một tên lính trong lúc ánh sáng của quá trình dịch chuyển vẫn còn đang mờ dần. Lúc này, Sigismund đang ở giữa đội hình địch và liên tục vung kiếm giết chết kẻ thù chỉ bằng những cú đánh duy nhất trước khi những khẩu súng và lưỡi kiếm của chúng kịp chạm vào anh.

Chiếc Lachrymae đang rơi dần xuống, máu của nó chảy vào khoảng không khi hàng đàn máy bay đột kích bắt đầu tấn công và đâm móng vuốt vào hai bên sườn con tàu.

Lửa và âm thanh ầm ĩ từ cuộc giết chóc tràn ngập cầu tàu Lachrymae . Những tên lính trong bộ giáp màu xanh nước biển tản ra, bắn vào mọi thứ trong lúc chúng di chuyển. Máu thịt văng tung tóe trong không trung khi những viên đạn bolter phát nổ giữa các nhóm phi hành đoàn và servitor. Sigismund nhìn thấy các chiến binh Templars vừa đứng trên cầu tàu cùng anh lần lượt bị quật ngã bởi những loạt đạn dữ dội rồi bị kết liễu dưới những lưỡi kiếm của kẻ thù. Đó cũng sẽ là số phận dành cho Sigismund nếu anh ngừng kháng cự.

Những giây phút tiếp theo nhạt nhòa trôi qua nhanh. Thế giới như đang xoay chuyển theo nhịp đập của hai trái tim song sinh trong lồng ngực Sigismund rồi thu gọn lại chỉ còn hình ảnh của thanh kiếm và mục tiêu tiếp theo mà anh nhắm tới. Kẻ thù đang vây chặt xung quanh, phủ kín anh trong màu áo giáp xanh nước biển cùng cơn mưa những lưỡi dao đang chém xuống và hàng loạt nòng súng nhắm thẳng vào mục tiêu qua đôi mắt trống rỗng của những con người xa lạ đã lạc lối bởi Chaos. Chúng quá đông đảo, ở cự ly quá gần còn tốc độ thì quá nhanh.

Đột nhiên, Sigismund nhìn thấy Aximand đang đứng phía sau vòng xoáy giết chóc do binh lính dưới quyền tạo ra, anh có thể nhìn thấy chiếc mũ bảo hộ bằng đồng bên dưới cái bờm màu đỏ, thanh kiếm nằm trong vỏ bọc phía sau lưng cùng thiết bị phản lực màu bạc có hình dạng nửa vầng trăng treo trên vai hắn, bên dưới biểu tượng con mắt màu đỏ của Horus.

Sức nặng của thanh kiếm trong tay Sigismund dường như tan biến cùng hàng lớp xiềng xích bên trong anh. Mọi chuyện sẽ kết thúc tại đây. Tất cả những năm tháng chiến tranh mà anh đã phải trải qua sẽ kết thúc tại đây.

Anh sẽ chết … Một cái chết cô độc và không được ai nhớ đến.

Trong khoảng khắc này, Sigismund có thể nhìn thấy tất cả. Anh thấy một cây chain axe đang chém xuống theo hình vòng cung nhắm vào cánh tay cầm kiếm của mình, đằng sau nó là một thanh kiếm khác đang vung lên, thêm vào đó những luồng đạn bolter đang bay tới từ phía đằng xa chực chờ nhai nát đôi chân anh và còn nhiều thứ tương tự khác lặp đi lặp lại trước mắt. Mọi thứ xung quanh chuyển động, xoay tròn như những lưỡi gươm đang vẽ ra thứ ngôn ngữ của cái chết. Sigismund có thể nhìn thấy tất cả chúng và nhận ra bản thân mình không còn cần làm sáng tỏ bất kì điều gì nữa.

Cái chết đang đến …

Cái chết cô độc trên những vì sao xa xôi chứ không phải ở cạnh cha của anh.

Keeler đã sai.

Cái chết sẽ đến cùng sự thất bại của anh…

Anh sẽ chết ở đây.

Hiện thực tàn khốc nhấn chìm Sigismund và có lẽ đây là lần đầu tiên trong suốt cuộc đời mình, anh cảm thấy thật bình yên.

Nhưng ta sẽ không chết một mình…

Sigismund vung kiếm chặn đứng lưỡi cưa của cây chainaxe. Những tia lửa trộn lẫn ánh sáng chói lọi bật ra khi hai thứ vũ khí chạm nhau. Chuôi kiếm trong tay anh rung lên khi nó cắt đứt phần đầu và rải đống răng sắt nhọn của lưỡi rìu văng tung tóe ra xa. Anh đẩy mạnh, thanh kiếm theo đà tiếp tục chém xuống ngực tên lính trước mặt. Tên phản bội còn không có đủ thời gian để ngã xuống sau khi trúng đòn. Sigismund đã dồn tất cả trọng lượng của mình về phía trước, đẩy lưỡi kiếm cắt ngọt từ trên xuống dưới, xuyên qua toàn bộ phần thân của kẻ thù.

Một thanh power sword đâm thẳng vào khoảng không mà Sigismund vừa rời đi. Trường sức mạnh quanh lưỡi kiếm chỉ kịp cắt vào lớp giáp bên sườn trước khi anh thúc cùi chỏ thẳng vào mặt kẻ tấn công. Trên boong tàu, một loạt đạn bolter nổ tung trong không khí nhưng Sigismund đã di chuyển về phía trước, vung kiếm chém đứt chân của những tên lính địch bằng thanh power sword của mình trong khi đồng đội xung quanh anh gục xuống trong cơn mưa máu và nội tạng của chính họ.

Đây không phải là kiểu chiến đấu tay đôi bằng kiếm trong những chiếc lồng. Đây là điều mà Khârn của Quân đoàn XII gọi là ‘bản chất của việc chiến đấu’. Đâm, chém, đập vỡ, giết chóc liên tục mà không chút do dự để máu vẽ nên bức tranh về một thế giới mới. Dù vậy, bản khiêu vũ tử thần ấy vẫn có nhịp điệu của riêng mình – thứ nhịp điệu khủng khiếp và thuần khiết vang lên, tạo thành từ tiếng va chạm của những lưỡi kiếm, tiếng gầm rú của những họng súng, sự bùng nổ của cơ bắp và thứ cuối cùng nhưng cũng quan trọng nhất đó chính là máu. Thứ vũ điệu ấy đang bao quanh Sigismund và chạm tới cả bên trong, nơi ẩn náu cuối cùng của linh hồn anh, cũng là ngôi nhà mà anh đã tự tay điêu khắc qua từng vết cắt.

Những tên lính đang tấn công Sigismund là thành phần tinh nhuệ của Quân đoàn Sons of Horus, một lực lượng thiện chiến được lựa chọn thông qua kỹ năng cùng sự tàn bạo. Tất cả đều là những kẻ giết người. Nhưng lúc này đây chúng đang bị buộc phải lùi lại, xô đẩy nhau trong một đội hình hỗn loạn khi cố gắng một cách tuyệt vọng để chống lại vị Nguyên soái của lực lượng Templars bằng kiếm và súng của mình. Sigismund lao thẳng vào trong lòng địch, mỗi chuyển động của thanh kiếm trong tay anh là một đòn kết liễu lạnh lùng. Anh hầu như không quan tâm đến những cái xác chất đống ngày càng nhiều xung quanh mà đôi mắt chỉ chăm chú nhắm vào Horus Aximand đang đứng ở giữa đám cận vệ của hắn. Không điều gì có thể ngăn cản Sigismund, thanh kiếm của anh bật trở lại sau khi xẻ đôi một bộ giáp, những bước chân tiếp tục đẩy anh đâm xuyên qua rừng gươm của kẻ thù – tất cả đều không còn quan trọng, giờ đây trong mắt anh chỉ còn lại một con đường dẫn đến một kẻ thù duy nhất. Anh sẽ chết ở đây. Sigismund biết điều đó và anh cũng biết rằng điều cuối cùng mình có thể lựa chọn chính là cái cách mà anh sẽ chết.

‘Một cái chết cô độc và không được ai nhớ đến.’ Giọng nói của Euphrati Keeler từ quá khứ chợt vang lên.

Anh nâng vai đỡ lấy đòn đánh từ một chiếc rìu có móc, cảm thấy giáp vai bên phải bị nứt ra và lưỡi rìu cắt sâu vào cánh tay. Một vòi máu phụt lên trên không trung, một cái xác đổ gục xuống sàn và Sigismund bước thêm một bước về phía trước. Lúc này Aximand cũng đang tiến về phía anh, lưỡi kiếm của hắn được rút ra khỏi vỏ, lóe sáng. Một phát đạn bắn trúng phần giáp vai bị hư hại làm lớp ceramite vỡ vụn. Ngay lập tức, cơn đau bùng lên dữ dội lan khắp người làm đường gươm của anh trượt sang bên cạnh mục tiêu nó đang nhắm tới. Anh bắt được thanh kiếm bằng tay còn lại sau đòn đánh hụt ấy và giơ nó lên vừa kịp để đỡ lấy một cái chùy đang đập xuống từ góc chết ngoài tầm nhìn. Tên lính giữa đám đông đang vây chặt Sigismund vung cái chùy lên một lần nữa, mục tiêu lần này là giữa ngực anh. Một thanh chain sword khạc ra hàng tia lửa khi nó cào dọc cánh tay anh, xé nát giáp từ cổ tay đến cẳng tay.

Máu. Lúc này Sigismund đã có thể nếm được máu của mình.

Aximand dần bước lại gần, không chút vội vàng. Lưỡi kiếm trong tay hắn có bề rộng bằng khoảng cách giữa hai vai một người bình thường, thanh kiếm của một tên đồ tể.

Sigismund gạt đòn đánh của một tên lính và khéo léo dùng lưỡi kiếm cắt đứt cổ họng bên dưới lớp giáp bảo vệ màu đồng của hắn. Một âm thanh trầm đục vang lên từ vụ nổ vừa đập vào bên hông anh. Cơn đau một lần nữa lại hiện lên thật rõ ràng. Thế giới trước mắt anh vỡ tan thành hàng nghìn mảnh vụn màu trắng. Giờ đây anh không thể tiếp tục tiến lên còn cơn sóng màu xanh xung quanh vẫn đang gào thét và không ngừng tấn công.

Aximand đã ở rất gần rồi, cái áo choàng màu đỏ tung bay phía sau lưng hắn cùng tròng kính màu đỏ trên tấm giáp che mặt sáng lên bên cạnh những cái ngà khiến hắn trong thật lố bịch, hắn đang đóng vai một quỷ vương sắp trao món quà cuối cùng dành tặng cho kẻ thù đã tàn tạ của mình.

‘Đến với ta nào!’ Sigismund thì thầm.

Lúc này, những cột ánh sáng đột ngột hiện ra giữa không trung trên boong tàu kéo theo từng làn sóng nổ tung, quét ra xung quanh. Đám lính Sons of Horus bị đẩy lùi lại khỏi những cột sáng ấy và khi mọi thứ dần hiện lên rõ ràng trở lại, chúng nhận ra trước mặt mình là những người lính trong bộ giáp màu vàng đang đứng sừng sững. Sigismund có thể nhìn thấy hình dáng của những chiếc boarding shield đang khóa chặt vào nhau tạo thành một vòng tròn phòng thủ. Những khẩu bolter bắt đầu nhả đạn, âm thanh của chúng tiếp nối tiếng sấm đang tắt dần sau đợt dịch chuyển đầu tiên. Quân đoàn phản bội gục ngã, bị đấm văng khỏi mặt đất bởi những cú húc mạnh mẽ. Các vòng tròn phòng thủ của lực lượng Imperial Fists nhịp nhàng tách ra rồi tập hợp lại để mở rộng phạm vi, những tấm khiên khóa chặt vào nhau tạo thành một bức tường duy nhất. Sigismund nhận ra ở giữa đội hình đang lao tới trước là biểu tượng chiếc rìu đôi đã chuyển sang màu vàng loang lổ do bị đốt cháy và chiếc khiên màu đen đặc trưng của Rann. Súng nổ không ngừng trong lúc họ di chuyển, đạn bolter bắn ra từ những khe hở phía trên lớp khiên chắn. Đó là một sự phối hợp hoàn hảo một cách tàn bạo, như những nhát rìu chuẩn xác chẻ đôi hộp sọ của kẻ thù. Sigismund đứng lên một lần nữa và khi thanh kiếm của anh đang băm nát những tên lính xung quanh, anh nghe thấy tiếng bức tường khiên đâm thẳng vào lực lượng Sons of Horus.

Những tên lính to lớn trong bộ giáp màu xanh nước biển bị đẩy bật lại, đội hình của chúng tan tác. Nhưng chúng không phải là những người lính bình thường hay đám tân binh space marine mới ra chiến trường lần đầu. Chúng là những người lính từng thuộc Quân đoàn XVI, những chiến binh ngã xuống từ vị trí vinh quang cao ngất mà họ đã phải trả giá bằng máu và cái chết để đạt được. Chúng nhanh chóng nghĩ ra cách để đối phó với bức tường khiên của lực lượng Imperial Fists. Tiếng súng chát chúa vang lên. Các luồng plasma cùng các chùm tia melta tập trung bắn vào một vị trí trên bức tường làm bốc hơi cả khiên lẫn người chiến binh đằng sau nó. Tiếp theo đó, đám lính Sons of Horus đang phân tán rải rác tập hợp lại theo đội hình cái nêm với phần mũi hẹp nhắm vào vết nứt ấy để mở ra một con đường vào bên trong trước khi khoảng trống bị lấp lại. Một mệnh lệnh vang lên trên đầu lực lượng Imperial Fists, tiếng vọng của nó tràn khắp kênh vox.

‘Mở ra!’ Rann hét lên.

Bức tường tách ra, những khoảng trống rộng lớn xuất hiện giữa những tấm khiên chắn. Các chiến binh màu vàng đen xông ra từ các lỗ hổng. Họ đội những chiếc mũ giáp có gắn vòng nguyệt quế tráng men lấp lánh và trên tay là những thanh kiếm được thắp sáng bằng ngọn lửa xanh. Dẫn đầu họ là Boreas trong bộ áo giáp dành cho sĩ quan giờ lốm đốm các vệt máu và bị lửa làm cháy sém. Các Templars vừa được dịch chuyển đến đã ngay lập tức phát động cuộc tấn công vào lực lượng Sons of Horus còn phía sau lưng họ, bức tường khiên dần khép lại.

Cơn cuồng phong đang gào thét tàn phá chiếc Lachrymae bị chặn đứng bởi một tiếng sét màu vàng. Cầu tàu đột nhiên bị ép chặt bởi xác thịt và vũ khí nghiến vào nhau như những chiếc răng đẫm máu. Power weapon cắt xẻ mọi thứ bên dưới lớp áo giáp thành những mảnh vụn rồi biến cả boong tàu thành một cái máy nghiền khổng lồ của những cú đập và chém. Sigismund nhìn thấy Boreas đâm kiếm xuyên qua một tên lính màu xanh nước biển rồi xoay người xả một nửa băng đạn bolter thẳng vào mặt một tên khác trước khi đá văng cái xác đang mắc kẹt trên lưỡi kiếm của mình vừa kịp lúc để đỡ lấy nhát chém từ một cây chain glaive (một dạng thương gắn xích ở lưỡi). Một lát cắt mỏng manh của thời gian lại trôi qua và sự hỗn loạn của trận chiến đã che khuất Boreas khỏi tầm mắt của Sigismund.

Sigismund đang bơi ngược cơn sóng tạo ra bởi hàng lớp kẻ thù, anh có thể cảm thấy máu từ vết thương đông lại bên trong áo giáp của mình. Xung quanh anh vẫn tràn ngập những hình dạng to lớn bao phủ trong màu xanh và màu đồng. Một cơn đau khác nhói qua lớp xương sườn khi một cú đánh từ phía sau đâm vào bên hông anh. Sigismund đảo ngược thanh kiếm của mình và đâm nó hướng lên trên từ bên dưới cánh tay. Anh cảm nhận lưỡi gươm đâm trúng mục tiêu và xé toạc thứ gì đó khi anh kéo nó trở lại, lưỡi kiếm tiếp tục xoay tròn trên tay anh trước khi Sigismund vung một nhát chém từ dưới lên trên, xẻ đôi tên lính trước mặt từ khớp háng đến tận vai. Anh bước về phía trước rồi dừng hẳn lại.

Các ngón tay trên bàn tay trái của anh đang run rẩy, không thể khép chặt lại trên chuôi kiếm.

Có thứ gì đó ở bên hông của anh, thứ gì đó đã cắm vào xương sườn và đang gieo rắc cơn đau khủng khiếp vào những dây thần kinh của anh.

‘Nguyên soái!’ Anh nghe tiếng ai đó hét gọi, âm thanh vang lên thật gần rồi bị nhấn chìm trong tiếng va chạm của những lưỡi dao và tiếng súng.

Anh có thể nếm được vị sắt trong miệng mình.

Trận chiến trước mắt anh mờ đi rồi tách ra thành từng mảng loang lổ.

Anh cảm thấy cánh tay trái của mình tê dại còn sức lực thì không ngừng chảy ra, nhuộm đỏ cả sàn tàu.

(phần 3)

Quy tắc của cuộc tàn sát

Kết thúc một bổn phận

Lời thề ngay lúc này

Horus Aximand đến đây vì Sigismund. Tiểu Horus không hề nói một lời hay bày ra bất kỳ hành động nào ăn mừng cho việc hắn sắp giết anh. Đó là sai lầm của những tên chiến binh cấp thấp, lũ kém cỏi tin rằng hành động khinh thường đối thủ sẽ làm chiến thắng của chúng trở nên rực rỡ hơn. Aximand chỉ đơn giản lao tới, giơ cao thanh kiếm lưỡi rộng khổng lồ của mình để chuẩn bị cho một đòn tấn công chết chóc.

Sigismund bước lùi lại, cố tạo khoảng cách nhưng nhát chém đầu tiên của Aximand đã nhanh chóng trở thành đòn tấn công thứ hai và thứ ba. Sigismund đỡ lấy cú đánh cuối cùng bằng cánh tay còn hoạt động được và cảm thấy lực va chạm xé rách các cơ ở vai phải của mình. Tiểu Horus tiếp tục lao tới và vung kiếm càng lúc càng nhanh. Sigismund đánh trả nhưng chỉ chém trúng không khí, Aximand vẫn rất sung sức còn Sigismund thì cảm thấy thế giới của mình ngày càng bị thu hẹp lại và dần tách khỏi trận chiến đang diễn ra xung quanh. Đây là khoảnh khắc mà những tên lính Sons of Horus đã chuẩn bị cho chỉ huy của chúng: một con mồi yếu ớt trước hàm răng của con sói đầu đàn.

Sigismund đọc được đường kiếm tiếp theo của Aximand và phản công bằng một nhát chém trái tay nhắm vào phần đầu. Aximand gạt đỡ đòn và hai thanh kiếm ghì nhau cắm vào bên dưới sàn tàu. Các tia lửa bắn ra dữ dội khi trường năng lượng bao quanh hai lưỡi kiếm chà xát vào nhau. Tiểu Horus dồn sức đẩy thanh kiếm của hắn về phía trước. Trong lúc đó, Sigismund đột ngột giật lùi lại để giải phóng lưỡi kiếm bị khóa chặt, nhưng Aximand đã cảm nhận được áp lực đang giảm đi và ngay lập tức đâm mũi kiếm của hắn tới trước. Sigismund nâng kiếm lên theo phản xạ nhưng đòn đánh của kẻ thù đã không thể chạm tới thanh kiếm của anh.

Một lưỡi kiếm dài giáng thẳng xuống thanh kiếm của Tiểu Horus làm nó chệch khỏi mục tiêu.

Ngay sau đó, Boreas quăng cả thân người mình về phía trước tông vào Aximand khi tên Đại úy Sons of Horus vừa kéo thanh kiếm trở lại để chuẩn bị đối mặt với kẻ thù mới của mình. Boreas đập chuôi kiếm vào tròng kính mắt phải trên mũ giáp của Aximand. Pha lê đỏ vỡ tan. Boreas tung đòn liên tục, không cho Aximand khoảng trống nào để phản công. Áo giáp của hắn bị vò nát. Máu bắn ra từ bên dưới lớp ceramite đang bị xé vụn.

Boreas lùi lại một bước, thanh kiếm trong tay giơ lên thủ thế rồi bổ xuống một nhát chém chí mạng. Người Trung úy của Sigismund đã nhắm chuẩn thời gian và tung đòn một cách hoàn hảo, đó là thành quả của kinh nghiệm và sự rèn luyện cùng bài học từ hàng chục ngàn trận chiến mà anh đã trả qua. Nhưng đòn tấn công ấy đã trở thành là sai lầm duy nhất của anh. Cú đánh ấy sẽ không bao giờ được hoàn thành. Không phải vì Boreas đã phạm lỗi nào đó khi thực hiện nó mà bởi vì đối thủ anh đang phải đối mặt là Đại úy của những kẻ phản bội, một đứa con trai được Horus – vị Warmaster đích thân dạy dỗ cả trước và sau khi hắn sa ngã vào Chaos. Aximand đã kịp xoay người và lao đầu mình vào Boreas trước khi người lính Templar kịp tấn công. Sigismund chỉ nhìn thấy Boreas lảo đảo sau khi trúng đòn và rồi sức ép từ trận chiến đã che kín tầm nhìn của anh.

Sigismund xô đẩy mọi thứ để bước về phía trước nhưng một tên lính đội mũ có bờm chặn đường anh bằng cây chùy khổng lồ đang được hắn vung bằng cả hai tay. Cây chùy đập trúng cái khiên vừa xuất hiện để đỡ đòn cho Sigismund làm lóe lên ánh sáng và tia chớp trên bề mặt màu đen của nó. Tên lính bị mất thăng bằng khi đòn đánh bị chặn lại. Rann gạt mạnh chiếc khiên trong tay về phía trước rồi chôn chiếc rìu của mình vào cổ tên lính xấu số.

‘Rốt cuộc thì đám chó dại này cũng có răng đấy,’ Rann gầm gừ trong lúc kéo chiếc khiên của mình lại gần che cho cả hai khỏi một loạt đạn bolter. Sigismund lúc này đang ở bên cạnh Rann, bên trong một đội hình phòng thủ cũ nhưng cực kỳ hiệu quả vừa được tạo thành từ những người lính Imperial Fists xung quanh họ, một hình tam giác với các tấm khiên chắn chồng lên nhau.

‘Bên dưới!’ Rann hét lên khi đầu của một chiếc búa có mỏ móc vào phía trên chiếc khiên của anh và cố ghì nó xuống. Sigismund lấy đà, giữ chặt thanh kiếm trong cánh tay lành lặn còn lại. Rann hạ thấp người trong một giây rồi tông mạnh về phía trước, tất cả cơ bắp và áo giáp cùng kỹ năng sắc bén được mài dũa qua hàng thập kỷ của anh đổ dồn vào chuyển động tưởng chừng như đơn giản ấy. Chiếc khiên màu đen được nhấc lên cao, kéo theo cây búa đang móc vào mép của nó. Sigismund đâm thanh kiếm của mình hướng lên trên từ phía dưới đáy của chiếc khiên. Anh cảm thấy nó đâm trúng mục tiêu, xuyên qua áo giáp và cắt vào lớp da thịt sống bên dưới rồi kéo nó lại trước khi trọng lượng của cái xác đè lên nó.

Một khoảng trống trên chiến trường mở ra, Sigismund thoáng nhìn thấy Boreas và Aximand. Lúc này, những tên lính Sons of Horus đang vây quanh Boreas và máu đã khoác lên áo giáp của anh một lớp sơn mới màu đỏ rực.

‘Chuỗi dịch chuyển đã được kích hoạt,’ Rann nói. ‘Chiếc Persephone sẽ tiến vào phạm vi có thể dịch chuyển sau 4 phút nữa. Anh nghĩ rằng chúng ta có thể sống sót cho đến lúc đó chứ? ‘

Sigismund lắc đầu.

‘Chúng ta phải đến chỗ Boreas,’ anh hét lên với Rann làm vị Đại úy đội đột kích cười như điên.

‘Anh thực sự muốn chết, đúng không? Boreas đã đúng. Chúng tôi đến đây để cứu anh còn anh thì chỉ muốn chết dưới tay đám chó này sao? Lũ khốn nạn này đã bò khắp con tàu rồi. ‘

‘Lời thề của chúng ta là dành cho giờ phút này’. Sigismund hét lên.

‘Còn bổn phận của chúng ta là phải sống để tiếp tục tham gia cuộc chiến này,’ Rann gầm lên đáp lại.

‘Chúng ta sẽ không bỏ rơi anh ấy.’

Rann nhìn xung quanh, Sigismund không thể đọc được suy nghĩ từ đôi mắt giấu đằng sau cặp kính màu xanh lục trên chiếc mũ bảo hiểm của anh ấy.

‘Được rồi. Chúng ta sẽ làm theo ý anh.’ Rann gồng cứng cơ bắp toàn thân bên dưới chiếc khiên. ‘Tất cả tiến lên theo ta!’ Bức tường khiên bắt đầu lao lên lên phía trước, đâm thẳng vào cơn bão tạo thành từ những khẩu súng và lưỡi kiếm của kẻ thù.

Một bước, rồi hai bước, cơ bắp và cảm biến trên bộ giáp của những người lính kêu gào khi họ nhận lấy tất cả va chạm từ cơn mưa đạn bolter ở khắp nơi đang nhắm vào họ.

‘Mở ra!’ Rann hét lên và khoảng trống ngắn ngủi mở ra lần thứ hai phía trước bức tường khiên. Sigismund đã nhìn thấy Boreas một lần nữa. Anh ấy đang nằm trên sàn tàu, áo giáp và cơ thể trộn lẫn thành một đống đổ nát đẫm máu. Aximand đang đứng trên Boreas trong niềm hân hoan chiến thắng, hắn xoay thanh kiếm của mình và đâm nó xuống trong một đòn đánh cuối cùng.

Thanh kiếm của Sigismund vừa kịp chặn Aximand lại. Ánh sáng bị cắt làm đôi bởi lưỡi kiếm của anh. Aximand nhảy lùi lại thật nhanh sau cú va chạm. Sigismund giờ đây đang đứng trên Boreas, bên ngoài bức tường khiên.

‘Tất cả giữ nguyên vị trí để chuẩn bị dịch chuyển rời khỏi đây!’ Rann hét vào kênh vox, nhưng Sigismund lờ đi. Anh tiến thêm một bước, mắt nhìn chăm chú vào vòng cung mà thanh kiếm của Aximand đang vẽ ra, cơ bắp và lưỡi kiếm của anh hợp lại làm một. Không còn điều gì thực hơn cảm giác này. Không còn điều gì quan trọng hơn khoảng khắc này. Niềm tin của Sigismund đã và sẽ luôn là một dư âm của thời khắc này, thời khắc thanh kiếm trong tay anh lao xuống như hơi thở của anh, như cuộc đời của anh .

Đòn đầu tiên của Sigismund đánh trúng cánh tay cầm kiếm của Aximand và chém rời cả bàn tay lẫn thanh kiếm khỏi cổ tay hắn. Đòn thứ hai nối tiếp theo sau, không hề có khoảng trống, không hề tồn tại bất kỳ kẽ hở nào. Máu tuôn ra khi mũi và lưỡi kiếm của Sigismund chém xuyên phần giáp trước ngực Aximand. Những giọt máu loé sáng nổi bật trên bộ áo giáp màu xanh, màu của một vùng biển đang chìm trong bão tố.

Aximand lảo đảo, chảy máu dữ dội.

Không khí xung quanh cả hai đang gào thét.

Những cột ánh sáng bắt đầu mở rộng nhấn chìm mọi thứ trong tầm mắt.

Sigismund nâng kiếm của mình lên chuẩn bị cho đòn kết liễu sau cùng.

Và rồi thế giới xung quanh anh chợt biến mất trong một màn ánh sáng chói mắt.

Lực lượng Imperial Fists đã buộc phải bỏ lại con tàu Lachrymae đang rên xiết dưới những lưỡi kiếm của kẻ thù. Những con tàu sống sót nhanh chóng bay vào khoảng không đen tối, hướng về phía hạt bụi nhỏ li ti đang phát sáng ở trung tâm hệ Sol – mặt trời. Hầu hết họ đều đã bị thương, nhiều người bị phỏng và một số sẽ chết trước khi các trận chiến khác trong tương lai tìm đến họ.

Trên sàn khoang dịch chuyển của chiếc Persephone, Sigismund hạ thanh kiếm mà anh đã nâng lên trên một con tàu khác. Tiếng sấm sinh ra do sự phóng điện khi dịch chuyển tan đi, mờ dần trong không khí. Xung quanh anh, bị nhuộm bởi máu và tro tàn, là những người anh em đã đến để cứu anh. Còn đằng sau anh, đang nằm bất động trên sàn, là Trung úy của anh – Boreas. Máu đang rỉ ra từ người anh ấy, đọng lại thành vũng.

‘Apothecaries đâu’ Rann từ gần đó hét lên.

Sigismund không nói được lời nào. Cảm giác tê dại ở cánh tay trái giờ đây đã chuyển thành ngọn lửa thiêu đốt da thịt anh. Anh nhìn xuống thanh kiếm của mình, vẫn đang bị xích ở cổ tay còn lại, nâng nó lên rồi từ từ chạm mặt phẳng của lưỡi kiếm vào trán.

CHƯƠNG 9

(phần 1)

Kẻ giết các vị vua

Ngọn giáo nhiều lưỡi

Bản chất của lưỡi dao

Chiến hạm Battle – Barge War Oath, Vịnh Supra-Solar

Hình chiếu ba chiều của Kibre và Sota-Nul tĩnh lặng rồi mờ dần trong khi cái bóng tâm linh của Ahriman vẫn còn hiện diện quanh quẩn trong căn phòng. Chief Librarian của Quân đoàn Thousand Sons nhìn Abaddon một lúc rồi nói qua suy nghĩ.

  • Tạm biệt.+, Tiếng nói vang lên trong đầu Abaddon trước khi cái bóng tan biến và để lại một đám bụi băng giá xoay vòng trong không khí.
  • Cầu mong mọi việc diễn ra như chúng ta mong muốn.+

Abaddon nhìn không chớp mắt vào khoảng trống bị bỏ lại khi hai chỉ huy của hạm đội phụ rời đi. Phía trên và đằng sau anh, những chiếc ghế mọc lên và lan rộng ra khắp căn phòng hội đồng, bầu không khí trống rỗng im lặng kéo dài qua những bức tường phủ bóng.

‘Cầu cho mọi việc đều sẽ được hoàn thành’ Abaddon thì thầm vào bóng tối xung quanh.

Mục đích của tất cả những những gì họ làm là đảm bảo rằng kết quả cuối cùng tạo thành từ từng phần nhỏ của cuộc tấn công sẽ chỉ được biết đến bởi những chỉ huy cao cấp nhất. Trong đó, chỉ một số được thông báo về các mục đích đan xen vào nhau do những chuỗi hành động của họ tạo ra. Và thậm chí, chỉ một số ít, rất ít, được biết đến các nút thắt nằm sâu bên trong kế hoạch của vị Warmaster. Ngoài họ ra, không một người nào khác có quyền biết đến chúng, ngay cả trong chính hàng ngũ những chiến binh có cấp bậc cao nhất của Quân đoàn hay các đồng minh thân cận nhất. Vì vậy, cuộc họp cuối cùng của những người chỉ huy được chọn trước khi họ hành quân theo con đường riêng định trước của mình đã phải diễn ra trong bóng tối trống trải tại nơi đây, không có các trợ lý hay những người anh em khác đi cùng.

Abaddon đứng lặng im ở giữa căn phòng trong một lúc, ánh mắt hướng vào khoảng không tăm tối trước mặt nhưng anh không thực sự nhìn vào nó.

Ánh đèn nhảy múa xa xa phía bên kia căn phòng.

Máu đang che khuất tầm nhìn của Abaddon.

‘Tên nhóc ấy đây à?’ một giọng nói phát ra, trầm nhưng rõ ràng và mạnh mẽ. Abaddon nhìn lên và cảm thấy sợi xích quanh cổ siết chặt lại. Hai bóng đen lờ mờ đứng phía trước anh, trong tay cầm những ngọn đuốc sáng rực. ‘Nhìn nó không giống đang còn sống.’

‘Chúng ta sẽ không thể bắt được nó nếu nó không ở trong tình trạng này. Tên nhóc này đã vượt qua ba mươi nhóm lính deep – warren thiện chiến trước khi chúng tôi tìm thấy nó. Mà đó là điều xảy ra sau khi những người đi cùng nó bị giết hết. Khi chúng tôi đến nơi, chàng trai trẻ này đang cố gắng đào một đường hầm ra khỏi đó.’

‘Nó sẽ sống sót với những vết thương đó chứ?’

‘Nếu nó không thể, thì tại sao chúng ta lại muốn có nó?’

Một tiếng gầm nhẹ đồng ý rồi một trong hai cái bóng tiến về phía trước và ngồi xổm xuống trước mặt Abaddon. Ánh sáng của ngọn đuốc trong tay hắn vẽ ra những vệt màu cam và đỏ trên bộ áo giáp màu trắng xám. Đôi mắt đen láy trên khuôn mặt đầy sẹo cùng những hình xăm lởm chởm nhìn vào Abaddon.

‘Ngươi nhìn thấy chúng ta đúng không, nhóc?’ người lạ mặt hỏi.

Abaddon không trả lời.

Anh nhớ mình đang ở trong vực sâu, dẫn đầu một cuộc đột kích vào cái hang căn cứ chính của bộ tộc săn đầu người Headtakers. Đã có một cuộc phục kích. Kẻ địch đã chờ đợi họ với một lực lượng đông đảo được tập hợp từ ít nhất ba bộ tộc, chúng đến để lấy đầu anh – vị hoàng tử bị lưu đày. Hàng trăm tên sát nhân tràn ra từ các đường hầm, bẫy mìn được kích nổ và những viên đạn cứng bay vo ve trong không khí… Tất cả những thứ đó đã giết chết một nửa số họ hàng cùng chia sẻ lời thề với Abaddon trong những vụ nổ đầu tiên. Đó là một cuộc tàn sát đẫm máu và hèn nhát, nhưng nó không thể cản được Abaddon, anh lao ra khỏi màn khói bụi dày đặc và tấn công kẻ phục kích đầu tiên mà anh nhìn thấy bằng một cú đánh trái tay khiến phần đầu của người đàn ông xấu số bị chẻ dọc từ khớp quai hàm đến tận phía sau hộp sọ.

‘Ngươi biết chúng ta là ai không?’ hắn tiếp tục hỏi, ánh mắt thản nhiên. Abaddon nhìn hắn và gật đầu.

‘Các người là tử thần, kẻ lấy đi linh hồn của những người đã chết.’, anh nói.

Khuôn mặt xấu xí ấy cười lớn.

‘Đúng đấy, nhóc, ngươi nhận ra chúng ta rồi đấy.’ Bóng người trước mặt Abaddon đang cầm một đồng xu bằng những ngón tay bọc giáp với mặt bên bằng bạc được đánh bóng sáng như gương. ‘Và ta đang giữ đồng xu đại diện cho cuộc sống của ngươi.’

Abaddon không cử động nhưng vẫn giữ khuôn mặt và ánh nhìn kiên định trong lúc đang chống lại cơn đau nhói buốt từ bên sườn. Anh có thể nếm được vị máu. Anh có thể sẽ chết ở đây, nhưng Abaddon ta sẽ không cho phép những sinh vật trông giống như con người này tận hưởng chiến thắng của chúng một cách dễ dàng. Nếu chúng đến đây vì mạng sống và linh hồn của anh thì chúng sẽ phải xé nát nó ra khỏi thân xác anh. Những người được gọi là tử thần đã ở trên hành tinh này từ rất lâu rồi. Họ sống trong bóng đêm và trên những vì sao bay xung quanh bầu trời của Cthonia. Họ theo dõi, phán xét và mang đi những người được cho là xứng đáng bước vào bóng tối để trở sinh vật thành giống như họ. Một số người nghĩ rằng tử thần chỉ là một câu chuyện kể, nhưng những năm gần đây, đã từng có những clan bị biến mất hoàn toàn trong các cuộc nội chiến băng đảng và không bao giờ được nhìn thấy nữa. Họ – những kẻ lấy đi linh hồn của người chết thật sự tồn tại.

‘Chúng ta đã tìm kiếm ngươi được một thời gian,’ người lạ mặt nói, ‘vị hoàng tử bị lưu đày, người đã chọn giết cha mình thay vì giết những người bạn đồng hành cùng chung lời thề với mình để hoàn tất nghi thức trở thành một người đàn ông.’

Abaddon vẫn im lặng. Bóng người còn lại, đang đứng khuất nửa thân mình trong bóng tối cử động và bật ra một tràng cười sảng khoái.

‘Anh sẽ không thu được bất cứ điều gì từ nó đâu, Syrakul. Nhìn nó đi, không phải là dạng người thích nói chuyện. Có quá nhiều sự tức giận đang cuộn lên tìm kiếm con đường để thoát ra. Đó là lý do tại sao nó ở đây. Đó cũng là lý do tại sao nó suýt chết trong những đường hầm đó và khiến những người đặt niềm tin vào nó bị giết sạch. Tên nhóc này có thể là một kẻ giết người, nhưng bên trong linh hồn nó chứa đầy lửa, nhiều đến mức đủ để đốt cháy tất cả những gì nó chạm vào.’

Bóng người thứ hai bước vào tầm mắt mờ mịt của Abaddon. Hắn mặc một bộ giáp trắng xám giống như tên đầu tiên và đang ôm một chiếc mũ đội đầu có gắn bờm bên dưới cánh tay trái của mình. Ánh mắt của Abaddon bắt gặp dấu hiệu một mặt trăng lưỡi liềm được khắc trên chiếc mũ, phía bên trên mắt phải. Lớp da màu đen bóng như than củi ánh lên dưới ngọn đuốc cùng mái tóc bờm ngựa cắt ngắn chạy dọc trên đầu người đàn ông vừa bước đến. Đôi mắt lớn, màu xám bạc lấp lánh phía trên nụ cười đang mở rộng. ‘Ta nói đúng phải không nhóc? Ngươi sẽ chỉ nhìn chằm chằm vào bọn ta và không nói một lời nào, ngay cả khi bọn ta đâm con dao vào sâu bên trong và cắt lấy linh hồn ngươi.’

Tên lạ mặt đầu tiên, người được gọi là Syrakul, đứng dậy.

‘Người anh em của ta nói đúng không, chàng trai trẻ?’ Syrakul hỏi. ‘Hay ngươi còn điều gì đó giá trị hơn sự tức giận đang chảy trong huyết quản của ngươi hả Abaddon?’

Abaddon cảm thấy cơ mặt mình co rút lại khi nghe hắn gọi tên mình, đôi mắt anh lướt qua hai bóng người to lớn đang đứng trước mặt.

‘Phải. Chúng ta biết tên của ngươi,’ người đàn ông với đôi mắt xám nói. ‘Chúng ta biết ngươi là ai cũng như những gì ngươi đã làm. Chúng ta biết ngươi đã giết gần như tất cả thành viên của bộ tộc đã sinh ra ngươi và cả những kẻ còn sống sót cố săn lùng ngươi kể từ khi đó. Chúng ta biết ngươi đã giết tất cả những tên khác được gửi đến rồi tìm ra kẻ đứng đằng sau và tặng cho chúng những gì mà chúng đã không thể thực hiện với ngươi. Chúng ta biết tất cả, chàng trai trẻ. Chúng ta biết ngươi là một kẻ giết người hay đơn giản là một người đàn ông đang cố gắng sống sót, Abaddon, con trai của Tarkerradon. Điều duy nhất mà bọn ta không biết là liệu ngươi có đủ sức mạnh để trở thành một điều gì đó còn vượt lên trên tất cả những chuyện ấy không. ‘

‘Ta không…’ Abaddon cố nói từng từ qua hàm răng gãy vụn và cơn đau đang hành hạ. Tại một khoảng khắc trong cuộc chiến sau khi bị phục kích, có thứ gì đó đã làm vỡ nát một nửa xương trên khuôn mặt anh. ‘Ta không muốn trở thành một vị vua.’

Tiếng cười lại bùng lên.

‘Đó là điều mà ngươi sẽ không bao giờ có được, Abaddon, dù cho ngươi có chết ở đây hoặc chọn trở thành một trong số chúng ta.’ người chiến binh với đôi mắt xám nói. ‘Chúng ta là kẻ giết các vị vua, là cơn ác mộng tồi tệ nhất của những tên bạo chúa. Chúng ta là những người anh em được ràng buộc bởi chiến tranh và máu. Chúng ta hiến dâng sinh mạng cho đồng đội, chúng ta sẵn sàng chết vì tương lai mà chúng ta tin tưởng và đó là tất cả những gì mà chúng ta sẽ trở thành. Ngươi có thể làm được vậy không, Abaddon? ‘

Abaddon ngước lên nhìn chằm chằm vào những kẻ lạ mặt trong lúc cơn đau đang cố gắng kéo anh vào vòng tay của nó. Anh há miệng hút một hơi dài, lắng nghe tiếng xiềng xích kêu leng keng khi anh cử động. Trong tâm trí, anh nhìn thấy cái hang động tăm tối ở quá khứ quay trở lại và cha anh đang ngã khỏi bàn tay đẫm máu của anh. Anh đã cố xoay người lại một cách nhanh nhất có thể nhưng vẫn là quá chậm khi một trong những tên lính gác giật mạnh đầu Kars về phía sau và cứa con dao ngang cổ người anh em máu thịt của anh.

‘Những gì các người nói có thật không?’ Abaddon hỏi, kéo từng lời ra khỏi cái hố sâu của cơn đau đang đục khoét anh. ‘Các người có dám thề rằng những điều đó là thật không?’

Syrakul liếc nhìn người bạn đồng hành của mình, rồi gật đầu.

‘Đó là sự thật, cậu bé. Nhân danh lời thề mà ta phát ra ngay lúc này, tất cả những điều ta nói đều là sự thật. ‘

Abaddon cố gắng đứng lên nhưng bị ghì lại bởi những xiềng xích xung quanh.

‘Ta …’ anh nói bằng giọng khàn khàn. ‘Vậy thì kể từ lúc này ta là của các người.’

Hai người lạ mặt không hề di chuyển. Anh có thể cảm thấy họ đang quan sát anh, đánh giá anh qua đôi mắt.

‘Phá bỏ đống xích đó đi,’ chiến binh mắt xám nói.

Syrakul bước lên phía trước, nắm lấy những gông cùm đang giam giữ tay chân Abaddon và bẻ gãy chúng như thể chúng chỉ là những sợi dây cũ kĩ mục nát.

Syrakul và chiến binh mắt xám tiếp tục nhìn chằm chằm vào anh. Abaddon hít một hơi dài rồi từ từ đẩy người đứng dậy, vật lộn với cơn đau đang thiêu đốt từng chút một cho đến khi anh đứng thẳng trên hai chân của mình, toàn thân bê bết máu còn khuôn mặt thì vỡ vụn. Cánh tay trái buông thõng dọc bên hông, gãy nát, bàn tay treo lủng lẳng bởi một sợi dây làm từ da và bắp thịt. Cơn đau bùng lên dữ dội, đâm xuyên qua anh.

Chiến binh mắt xám trao đổi một ánh nhìn với Syrakul, rồi gật đầu.

‘Ta là Hastur Sejanus. Phía trước ngươi, sẽ còn một con đường rất dài, Abaddon, phần lớn trong số đó sẽ được đánh dấu bằng những nỗi đau và những mất mát còn lớn hơn những gì ngươi đã trải qua. Không có phần thưởng nào nằm ở cuối con đường ngoại trừ việc ngươi sẽ trở thành một trong số chúng ta, trở thành một người anh em trong số những chiến binh của bầy sói. Nếu ngươi cảm thấy điều đó là chưa đủ, thì tốt hơn là đừng bao giờ bắt đầu bước lên con đường ấy. ‘

Abaddon lảo đảo, cố gắng chống chọi để bản thân không tỏ ra yếu đuối vì những vết thương đang mang trên mình trước những người chiến binh này.

‘Điều đó sẽ không chỉ đủ,’ anh nói. ‘Mà nó sẽ trở thành là tất cả đối với ta.’

Syrakul bật cười.

‘Tôi thích tên nhóc này. Nó sẽ trở thành một đứa cứng cựa lắm đây.’

Abaddon nhìn chăm chú vào vùng bóng tối đang dần thay thế quá khứ mờ nhạt trong mắt anh, rồi từ từ xoay người lại và bước đi.

(phần 2)

Kẻ giết các vị vua

Ngọn giáo nhiều lưỡi

Bản chất của lưỡi dao

Tàu chở hàng Antius , vịnh Trans – Saturnian

Mersadie giật mình tỉnh giấc.

‘Không …’ cô thở hổn hển bằng hơi thở cô đã hít vào trong giấc mơ khi con sói quay đầu lại và mỉm cười với cô qua hàm răng đẫm máu.

Khoang phòng ngủ yên lặng xung quanh cô, tiếng gõ nhẹ đều đặn từ động cơ của con tàu đã chuyển thành tiếng rì rầm trầm thấp bị nuốt chửng bởi những tấm thảm trang trí và đệm trải giường. Cô thở mạnh trong giây lát, nhìn xung quanh, bóng tối đang phủ lên những món đồ nội thất được chiếu sáng le lói bởi quả cầu độc nhất gắn trên cái giá đỡ bằng đồng đã chuyển màu. Tấm đệm của chiếc ghế dài bên dưới cô ướt đẫm mồ hôi còn quần áo thì đang dính chặt vào da cô.

‘Cô gặp ác mộng à?’ Nilus hỏi. Người hoa tiêu đang ngồi trên chiếc ghế bọc da phía bên kia phòng, đôi chân dài xếp bằng bên dưới cơ thể, trông anh ta giống như một bức tượng cổ xưa từ các thần thoại mà cô đã từng nhìn thấy trong bộ sưu tập của những tòa tháp kính. Anh đã tìm thấy một số quần áo để thay cho bộ đồ tù nhân của mình: một cái áo màu đen đỏ, rộng thùng thình giờ đang treo trên bộ khung xương mỏng như những cái chân nhện, nửa người phía trên được quấn trong một cái chăn nhưng khuôn mặt anh thì không giống như vừa ngủ.

‘Ả vệ sĩ có khuôn mặt chua ngoa của tên thương nhân đã để lại cho cô một ít quần áo,’ anh nói, gật đầu chỉ về đống vải ngay ngắn đặt trên một chiếc bàn nhỏ. ‘Mà tôi không nghĩ cô ta thích cô cho lắm.’

Mersadie ép mình ngồi dậy, dụi mắt để xua đi cơn buồn ngủ. Có vị kim loại trong miệng cô, giống như đồng hay sắt.

‘Chúng ta đang ở đâu?’ cô hỏi.

‘Đâu đó trong vùng vịnh giữa Uranus và quỹ đạo của Saturn,’ Nilus nhún vai đáp. ‘Ít nhất thì đó là những gì tôi có thể đoán được. Cô mới ngủ được một lúc thôi, chuyến đi này sẽ còn phải mất nhiều ngày, đó là khi cái xô đầy bu lông và gỉ sét này có thể hoàn thành nó. Con tàu này chỉ là một thiết bị di chuyển giữa các hành tinh có quỹ đạo gần. Tôi ngờ rằng nó thậm chí còn chưa bao giờ thực hiện một hành trình dài từ lõi đến rìa hệ sao.’ Anh cười và lắc đầu. ‘Tất cả chúng ta rồi sẽ chết hết, chỉ là chưa mà thôi.’

Mersadie không trả lời, cô đứng dậy và đi đến đống quần áo.

Antius đã thoát ra khỏi dòng thác lửa xung quanh Oberon và tăng tốc hướng về quỹ đạo bên ngoài của Uranus để tiến vào vùng vịnh không gian xa hơn đằng sau. Không ai truy đuổi hoặc cố gắng chặn con tàu lại, nhưng họ cũng chỉ là một con tàu nhỏ đang hoảng loạn chạy trốn trong số rất nhiều con tàu khác. Không có hồi đáp nào từ tín hiệu họ đã gửi đi, nhưng Mersadie thực sự không mong đợi nhiều từ nó. Tất cả sự tự tin của cô khi đứng trước Vek thực chất là một hành động tuyệt vọng không chút chắc chắn, giống như ném một hòn đá xuống hồ nước và hy vọng rằng ai đó có thể sẽ nhìn thấy những gợn sóng tỏa ra.

Cô cầm những bộ quần áo đã gấp gọn gàng lên – Tất cả đều rộng rãi và có màu xám đỏ.

‘Cô ta nói sẽ quay lại để gặp cô.’ Nilus nói, ‘Người nữ vệ sĩ ấy. Tôi nghĩ cô ta có chuyện gì đó muốn nói với cô.’

Anh đứng dậy, thò tay chân ra khỏi cái chăn, xoay nhẹ đầu vòng quanh cổ rồi chầm chậm tiến về một trong những cánh cửa dẫn đến khu vực khác của căn phòng.

‘Tôi sẽ để cho cô có sự riêng tư của mình,’ anh nói trước khi bước ra khỏi tầm mắt Mersadie.

Cô mặc quần áo vào, cảm nhận chất vải mềm mại và sạch sẽ đến lạ trên da mình.

Cửa chính dẫn vào phòng mở ra. Hình dáng cao gầy của Aksinya, người nữ vệ sĩ, đứng ở bậc cửa, được viền quanh bởi ánh sáng màu hổ phách phát ra từ các dải đèn lumen. Đôi mắt nhợt nhạt bắt gặp ánh nhìn của Mersadie trong một giây. Có điều gì đó trong ánh mắt lạnh lẽo đang nhìn chằm chằm nhắc Mersadie nhớ ra một điều – một mảnh vỡ từ khung cảnh đã lạc mất trong những vết nứt của quá khứ. Aksinya lắc mạnh đầu đưa bản thân quay trở lại dãy hành lang của con tàu.

‘Đi theo tôi,’, Aksinya nói và Mersadie máy móc làm theo.

Họ bước đi im lặng trong nhiều phút dài đằng đẵng, leo xuống những cái thang và bước dọc các bậc cầu thang dẫn vào một vùng không gian nồng nặc mùi dầu thô và kim loại bị nung nóng.

‘Chúng ta đi đâu vậy?’ Mersadie hỏi. Aksinya không trả lời, cô gõ phím điều khiển trên một cánh cửa lớn được đánh dấu bằng những vạch kẻ hình chữ V. Cánh cửa mở ra với một tiếng rít và tiếng đập thình thịch của khí nén. Mùi mồ hôi và hơi thở con người phả ra ngoài nồng nặc. Aksinya bước tránh sang một bên và ra hiệu cho Mersadie đi vào trong.

Ánh sáng bên trong mang một sắc thái khác, mờ nhạt và lạnh lẽo, giống như đang phát ra từ một bóng đèn thẳng công suất thấp. Họ đang đứng trong góc của một khoang chứa hàng. Mái của nó cong lên, kéo dài khoảng 10 mét đến phần đỉnh bằng phẳng phía trên đầu Mersadie. Đây là một khoang hàng nhỏ so với những khoang chứa rộng lớn trên các tàu vận tải to lớn hoặc các chiến hạm, nhưng bằng một cách nào đó, Mersadie cảm thấy nó thậm chí còn nhỏ hơn khi cô nhìn những người đang ở bên trong. Một bức tường người thưa thớt đang đứng đối diện cô, những đôi mắt vô hồn đặt trên những khuôn mặt kiệt sức. Cô nhìn thấy đủ mọi lứa tuổi trong số những khuôn mặt ấy, những đứa trẻ ló đầu nhìn cô từ giữa hai chân cha mẹ chúng, người già, người trẻ, tất cả đều đang nhìn chằm chằm với một chút tò mò và rất nhiều sợ hãi. Họ mặc trên người đủ loại quần áo với chất lượng khác nhau: từ bộ quần áo bằng cao su lưu hóa dính đầy dầu của những người khuân vác ở các bến tàu void dock đến những chiếc áo khoác nhung điểm xuyết cúc đồng hay những chiếc áo khoác ngoài bằng vải dệt thô, tất cả chúng đều bẩn thỉu và đã ố vàng theo thời gian. Không có khuôn mặt nào cử động, còn hầu hết các đôi mắt thì không hề chớp. Cô có thể nghe thấy âm thanh phát ra từ phía bên kia của đám đông và nhận ra rằng còn có những người mà cô không thể nhìn thấy, họ đang từ từ lấp đầy khoảng trống của bức tường. Những dải khói từ việc nấu nướng bay lên, cuộn tròn trong không khí. Mersadie ho sặc sụa khi mùi phân và nước tiểu trộn lẫn xộc vào cổ họng.

‘Cô là ai?’ một giọng nói trong trẻo vang lên từ phía gần sàn tàu. Mersadie nhìn xuống và thấy hai con mắt màu nâu đang ngước nhìn cô từ bên dưới những lọn tóc màu trắng xám rối bù. Mersadie ngẩng đầu nhìn những người lớn đang đứng cạnh đứa trẻ, nhưng họ không hề cử động hay nói điều gì. Họ và tất cả những người khác mà cô có thể thấy đều đang nhìn Aksinya, người vừa bước vào và đang đứng ngay sau cô. Cô hướng ánh mắt quay trở lại đứa trẻ và hạ thấp người xuống cho đến khi ngang bằng với dôi mắt to tròn màu nâu ấy.

‘Cô…’ Mersadie định trả lời câu hỏi nhưng chợt dừng lại, cô không biết phải nói gì. ‘Cô tên là Mersadie và cô từng là một người kể chuyện. ‘

‘Loại chuyện nào thế ạ?’ đứa trẻ hỏi.

‘Những câu chuyện thật sự.’

‘Cháu thì thích những câu chuyện mà ông cháu hay kể dù chúng chẳng thật chút nào. Có những bóng ma và những con tàu chứa đầy kho báu, các vị vua và những nữ hoàng của mặt trời và còn có hiệp sĩ của mặt trăng. Câu chuyện kể về người hiệp sĩ là tuyệt nhất. Cô ấy cưỡi trên các vì sao, cô biết đấy, và cô ấy không bao giờ có thể nói chuyện, không bao giờ, và cô ấy còn có một thanh kiếm vô hình mà cô không thể nhìn thấy, và cô ấy không mơ bao giờ bởi vì cô ấy đã phải đưa những giấc mơ của mình cho mặt trời giữ trong khi cô ấy bận đi tìm những sinh vật sống trong bóng đêm.’

Mersadie nhận ra mình đang mỉm cười.

‘Cô cũng thích những câu chuyện như thế nữa.’

Đứa trẻ gật đầu với vẻ mặt thật nghiêm túc.

‘Ông hứa sẽ kể tiếp cho cháu nghe một câu chuyện khác khi trở lại Cordelia. Đó là quê nhà của cháu. Gia đình cháu đã phải rời đi, nhưng bọn cháu nhất định sẽ quay trở lại, chỉ là từ đây đến lúc đó cháu phải tự kể những câu chuyện cũ cho mình nghe mà thôi’.

Một bàn tay hạ xuống nắm lấy vai đứa trẻ và kéo cô bé lại. Mersadie nhìn thấy khuôn mặt của một người đàn ông có đôi mắt cứng rắn với hình xăm khế ước phục vụ Uranus quanh má.

‘Lại đây nào, Sibi,’ anh ta nói, rồi nhìn Mersadie. ‘Cô có mang chút thức ăn nào xuống đây cùng với những từ ngữ đẹp đẽ và bộ quần áo sạch sẽ cô đang mặc không?’

Mersadie đứng thẳng lên, đột nhiên nhận ra bức tường người đã từ từ di chuyển lại gần mà cô không hề cảm thấy. Lúc này, sự tức giận đang hiện ra trong đôi mắt họ.

‘Không …’ cô ấy lúng túng. ‘Không, tôi xin lỗi. Tôi không biết, tôi đã – ‘

‘Chuyện gì đang xảy ra vậy?’ một câu hỏi từ phía xa vang lên.

‘Tôi…’ Mersadie ngập ngừng.

‘Chúng ta đang đi đâu thế?’

Dòng người giờ đây đã trở thành một đám đông, họ đang nhích lại gần hơn, đủ gần để cô có thể ngửi thấy mùi mồ hôi, mùi hơi thở và cảm nhận được sự sợ hãi đang dần tích tụ lại.

‘Tại sao các người xuống đây?’ một tiếng gầm gừ cùng một bàn tay chìa ra cố tóm lấy Mersadie. Aksinya bước tới trước và đập bàn tay ấy xuống bằng một động tác dứt khoát làm đám đông co rút lại tránh xa cả hai.

‘Đi nào,’ Aksinya nói, đẩy Mersadie về phía cánh cửa mà họ đã bước vào. Đám đông không hề đi theo họ, nhưng Mersadie nghĩ rằng mình có thể cảm thấy những ánh mắt ấy vẫn đang nhìn chằm chằm phía sau cánh cửa kim loại nặng nề được dánh dấu vừa đóng lại. Cô đứng lặng im trên dãy hành lang trong lúc Aksinya bước ngang qua.

‘Tôi hiểu rồi,’ cô nói với người vệ sĩ.

‘Thật không?’ Aksinya nói, dừng lại và nhìn vào Mersadie. ‘Có sáu khoang chứa hàng trên tàu và tất cả chúng đều đang trong cùng một tình trạng như vậy. Cô nghĩ rằng một con tàu như thế này mang theo bao nhiêu thức ăn trong các khoang chứa của nó? Cô nghĩ rằng số lương thực ấy sẽ tồn tại được bao lâu khi phải phân phát cho hàng trăm miệng ăn mỗi ngày? Cô nghĩ rằng sẽ được bao lâu, cho đến khi họ không bằng lòng ở yên nơi họ đang ở? Bao lâu cho đến khi họ cố gắng thoát ra? Nói tôi nghe, có điều gì trong thứ mà cô vừa thốt ra là mình đã hiểu cho cô biết điều gì sắp xảy ra không? ‘

‘Tôi rất tiếc, nhưng tôi không gây ra những điều này.’

‘Không, cô không gây ra chúng, nhưng cô đã ngăn chặn mọi thứ có thể trở nên tốt hơn. Nếu chúng tôi có thể cập cảng, chúng tôi đã có thể đưa một số người rời đi và bổ sung những nhu yếu phẩm cần thiết. Còn giờ đây, ngoài kia có những người đang săn lùng con tàu này, những người đang tìm kiếm cô – những người đã tự tay nã pháo vào những con tàu chở dân thường cùng phe chỉ để giết được cô. Và bởi vì thế nên tất cả những gì chúng ta có thể làm bây giờ là chạy trốn. Đứa bé gái nhỏ tuổi mà cô vừa nói chuyện, cô nghĩ điều gì sẽ xảy ra với nó nếu những người đang săn lùng cô tìm thấy chúng ta? Cô đã từng bao giờ thấy kiểu bạo lực nào giống với những gì đã diễn ra chưa? ‘

‘Có, tôi đã từng thấy, Mersadie đáp, giữ chặt cái nhìn lạnh lùng của người vệ sĩ.

Một lúc lâu sau, Aksinya gật đầu.

‘Có lẽ cô thực sự đã từng thấy, nhưng điều đó cũng chẳng thay đổi được gì cả. Tôi nhất định phải bảo vệ chủ nhân của mình và gia đình của ông ấy. Chỉ thế thôi. Con tàu này và những người ở trên nó không thuộc bổn phận khiến tôi phải che chở cho họ. Không có bất kì cách nào khác.’ Aksinya bước một bước lại gần hơn, gần đến mức Mersadie có thể cảm nhận được hơi thở mảnh như sợi chỉ của người phụ nữ ấy. Nó có mùi như kim loại. ‘Nhưng cô … cô đã nhấn chìm số phận của tất cả mọi người trên con tàu này và sắp làm cho chúng tôi có kết cục giống như cô. Tôi không cần biết và tôi cũng không quan tâm, lý do tại sao chủ nhân lại tin cô, nhưng tôi muốn cô biết rằng bất cứ điều gì xảy ra với anh ta và những người này đều không phải là lỗi của anh ấy. Nó là lỗi của cô, người kể chuyện. Nó sẽ là lỗi của mình cô mà thôi. ‘

Aksinya quay lưng và bước đi dọc theo dãy hành lang mờ mịt phía trước.

‘Quay trở lại chỗ của cô,’ Aksinya nói vọng lại, không thèm nhìn Mersadie. ‘Chủ nhân của tôi sẽ muốn nói chuyện với cô, sớm thôi.’

Mersadie Oliton đứng chôn chân tại chỗ rồi lặng lẽ làm theo.

(phần 3)

Kẻ giết các vị vua

Ngọn giáo nhiều lưỡi

Bản chất của lưỡi dao

Chiến hạm Battle – Barge War Oath, Vịnh Supra – Solar

Hạm đội khổng lồ của quân phản bội đang dần chuyển đổi hình dạng trong lúc tiếp tục hướng về phía mặt trời. Các con tàu theo từng nhóm bắt đầu di chuyển thành nhiều hàng khác nhau, đầu tiên là những con tàu nhỏ nhất đang bay ở rìa đội hình, sau đó đến các con tàu lớn hơn, từng lớp từng lớp bong ra, tách khỏi hạm đội chính như những nút thắt trên một cuộn dây được gỡ bỏ.

Phía xa, những con chim ưng của Quân đoàn White Scars đang bay lượn vòng quanh, quan sát sự thay đổi của hạm đội địch. Một lúc sau, chúng tiêu diệt được một vài con tàu khi lao đến hạ gục những chiếc frigate cỡ nhỏ và những chiếc gunboats tách khỏi phạm vi hành quân an toàn. Nhưng sự biến đổi của toàn hạm đội vẫn tiếp tục, quá trình chia tách lực lượng từ một binh đoàn khổng lồ duy nhất thành những hạm đội nhỏ hơn vẫn diễn ra mà không hề bị chậm lại.

Bọn White Scars đang quay trở lại, nhưng lần tấn công này của chúng được chào đón bởi một đàn hàng trăm con tàu nhỏ hơn từ một nhóm chiến đấu vừa được thiết lập. Chúng là những con tàu nhanh nhất trong số tàu của quân phản bội, được điều khiển bởi những rouge traders và những tên cướp biển sống ngoài vòng pháp luật. Chúng đã đổ xô theo lời kêu gọi của ngài Horus và được giao thực hiện nhiệm vụ này để đổi lấy lời hứa về sự giàu có và quyền lực. Chúng là những con quạ chiến tranh từng theo dấu cuộc Thập tự chinh vĩ đại đến tận rìa của bóng tối và giờ đây đang quay trở lại để rỉa thịt từ xác chết của những chủ nhân cũ. Đội tàu hải tặc phân tán ra ngoài theo hình xoắn ốc để đánh chặn những con chim ưng đang lao tới. Hàng trăm trận đụng độ nhỏ nổ ra, trải dài trong bóng tối, làm rung chuyển không gian trong lúc lực lượng tàu chiến khổng lồ phía sau chuyển mình thức giấc.

Hình dạng của hạm đội chính tiếp tục thay đổi. Lúc này, lớp vỏ tạo thành từ những con tàu cỡ nhỏ đã biến mất, làm lộ diện lực lượng chính ở bên trong. Rất nhiều con tàu mang dấu hiệu của Quân đoàn Sons of Horus, chúng là những mụ già bước ra từ các cuộc chiến đẫm máu trứ danh trong quá khứ: những cái tên như The last light, Oath of moment và Spear Wolf. Binh lính trên tàu đều là những chiến binh kỳ cựu, được sinh ra trong thời gian trước khi sự phản bội xảy ra, những người đã phá vỡ lời thề với Hoàng đế để chọn tiếp tục trung thành với vị Primarch của Quân đoàn. Bay cạnh họ là những con tàu có hình dạng khác nhau đến mức chúng không giống thuộc cùng một quân đoàn mà giống như một bộ sưu tập những sáng tạo được hình thành từ sự khéo léo đến đỉnh điểm của nhân loại trong công nghệ đóng tàu hợp nhất cùng sự điên rồ. Những chiến hạm khổng lồ bằng kim loại đen tuyền, lớp vỏ ngoài rải rác các khối hình chóp bằng crom; những cột hình tháp bóng loáng màu đồng lởm chởm răng cưa với chiều dài lên đến 5 km; hay những phiến đá đỏ có kích thước bằng cả dãy núi được kéo vào không gian và cải tạo thành các tàu city – ships bên trong chứa đầy những cỗ máy không ngừng hoạt động suốt ngày đêm. Tất cả chúng là thành quả chế tạo mới nhất từ các môn đồ của Kelbor-Hal và đế chế New Mechanicum của ông ấy. Không có bất kỳ hai con tàu nào trông giống nhau, kích thước cũng như hình dạng của chúng là tấm gương phản chiếu và mang dấu ấn riêng của những bậc thầy phù thủy đang điều khiển chúng.

Từng chiếc một, những con tàu của các Quân đoàn và New Mechanicum bắt đầu tách ra, tạo thành hai lưỡi của ngọn giáo. Trong vài giờ tiếp theo, hai hạm đội mới hình thành tiếp tục kéo dài ra và cùng hướng xuống mặt phẳng quỹ đạo của Hệ Sol, để lại sau lưng những con chim ưng Falcon và đàn quạ ăn xác thối quần thảo nhau trong một cuộc chiến dữ dội. Từng giờ từng giờ trôi qua, hai hạm đội di chuyển ngày càng xa nhau, cho đến khi mỗi bên chỉ còn nhìn thấy ánh sáng từ động cơ của lưỡi giáo còn lại chuyển thành một chấm nhỏ duy nhất, le lói như một ngôi sao xa xôi.

Abaddon quan sát toàn bộ quá trình qua một màn hình hiển thị liên tục được cập nhật từ hệ thống quét. Anh đã đứng im tại vị trí của mình trong hàng giờ đồng hồ. Xung quanh anh, mọi hoạt động trên cầu tàu chiếc War Oath diễn ra trong sự im lặng gần như tuyệt đối. Đó là một hành động của ý chí khi Abaddon buộc bản thân phải đứng tại chỗ và dùng trí óc để theo dõi tất cả dù là chi tiết nhỏ nhất trong lúc nhịp tim lấp đầy tai anh bằng một âm thanh đầy bồn chồn và bất an. Nhưng anh vẫn đứng đó, kiên nhẫn nhìn khoảng cách giữa hai hạm đội ngày một tăng lên theo thời gian. Sẽ có những trận chiến khốc liệt và máu sẽ nhuộm đỏ cả hệ sao trước khi họ đạt được chiến thắng, nhưng tất cả đều phụ thuộc vào khoảnh khắc này. Từ đây, mỗi phần của hạm đội chính sẽ đi theo con đường riêng để tìm đến mục tiêu và chiến đấu các trận chiến dành riêng cho mình. Những con tàu White Scars đã nhìn thấy lần phân chia đầu tiên này và chắc chắn sẽ theo dấu cả hai lưỡi của ngọn giáo. Nhưng vẫn chưa. Vẫn còn một điều chưa xảy ra. Vẫn còn một khoảnh khắc then chốt và bí mật nữa sắp đến, một mảnh nhỏ khác sẽ tách khỏi lưỡi giáo.

Abaddon chợt cảm thấy sởn gai ốc trên lưng. Cơ bắp của anh co lại, áo giáp chuyển sang trạng thái chiến đấu, khuếch đại cả những chuyển động nhỏ nhất của cơ thể qua tiếng kêu vo vo của các khớp. Anh vẫn dán mắt vào màn hình, nhưng hàm răng đã nhếch lên.

‘Ta không yêu cầu sự hiện diện của ngươi tại đây,’ Abaddon nói, ‘và cũng không định sử dụng bất kỳ lời khuyên nào từ ngươi.’

Zardu Layak dừng lại ở bên cạnh anh. Mùi trầm từ cơ thể tên linh mục của quỷ dữ toát ra nồng nặc, tràn ngập khắp không gian.

‘Tôi sẽ đi đến nơi tôi cần phải đến, chứ không phải nơi tôi được ra lệnh.’

‘Ngươi là một phần của lực lượng tấn công vào sao chổi. Đó là nơi ngươi CẦN phải đến. Các con tàu của Quân đoàn XV và Quân đoàn của ngươi đã sẵn sàng để khởi hành. ‘

‘Nhưng tôi sẽ không rời đi’ Layak nói. Abaddon quay nhìn lại hắn, tên linh mục đã bước lại gần hơn, hướng mắt nhìn vào màn hình và gõ nhẹ cây gậy xuống sàn tàu. ‘Tôi sẽ ở lại đây, bên cạnh anh.’

‘Ngươi sẽ đi cùng mũi giáo được lên kế hoạch tấn công thẳng vào sao chổi.’, Abaddon lặp lại, ‘Đó là ý muốn của ta.’

‘Nhưng đó không phải là ý muốn của các vị thần.’

‘Ta không quan tâm.’

Layak chợt im lặng trong một lúc.

‘Đôi tay này đã từng thuộc về một kẻ dị giáo,’ cuối cùng hắn chậm rãi giơ đôi bàn tay lên và nói. ‘Anh biết điều đó có nghĩa là gì không? Người chiến binh từng là tôi đã đốt trụi các ngôi đền và giết nhiều mạng sống, mạng sống của những người sùng đạo và giác ngộ thật sự. Tôi đã ném họ vào lửa đỏ. ‘

‘Quá trình cải đạo của ngươi không có ích gì với ta’ Abaddon đáp.

‘Tôi không cải đạo.’ Layak nói, ‘Người đàn ông có khuôn mặt nằm bên dưới chiếc mặt nạ này đã bị chiếm đoạt, đập vỡ và tái sinh. Đức tin của tôi là thiêng liêng bởi vì đó chỉ là một lời nói dối và tất cả những lời nói dối đều ngân lên giai điệu trong tai các vị thần ngự tại ngôi đền Pantheon. Lòng mộ đạo như thế là sai trái, nhưng nó tượng trưng cho sự khai sáng và cũng thật thuần khiết. Anh sống cho ngài Horus, cho Quân đoàn của anh, cho những người anh em của anh. Đó là niềm tin, là sự thật tạo nên con người anh. Còn thứ tạo nên tôi là hư vô, tôi không là gì cả. Tôi chỉ là đứa con đã rời bỏ người cha của mình. Tôi là người anh em đã biến những người từng sát cánh bên mình thành nô lệ.’ Layak gục đầu buồn bã, cách đó tám bước chân, hai tên kiếm nô đứng lặng im như tượng, không chút cảm xúc. ‘Tôi cũng giống như anh, Ezekyle Abaddon.’

Cơn giận đang đập từng nhịp trong máu của Abaddon sôi lên thành một cơn thịnh nộ dữ dội.

‘TA LÀ -‘

‘Trên Isstvan, những chiến binh mà anh đã giết không phải cũng mang cùng dòng máu giống anh sao? Hay họ chưa từng đổ máu khi chiến đấu bên cạnh anh? Chưa từng chia sẻ từng mẩu bánh mì, những lời thề cũng như những chiến công bên cạnh anh trong lúc anh cũng bên cạnh họ? ‘

Abaddon chợt thấy lại một khung cảnh đổ nát, từng cột khói cuộn lên trên bầu trời, tro bụi bay theo ngọn gió chết chóc không ngừng gào thét.

‘Tên phản bội,’ Loken gầm lên. Abaddon còn nhớ vị đắng của từng từ trong câu nói của mình, chúng vẫn hằn sâu trong kí ức của anh.

‘Ta không phản bội lại điều gì cả.’

Layak nghiêng đầu nhìn về phía những tên kiếm nô. ‘Tôi chọn đặt thanh kiếm của mình vào tay những người đã từng là anh em của tôi. Còn anh? Anh rút thanh kiếm trên tay từ trái tim những người đã từng tin tưởng anh, những người đã từng nghĩ rằng mối liên kết giữa họ và anh là không thể phá vỡ. ‘

Abaddon đứng lặng im. Trong tâm trí, những hình ảnh của quá khứ liên tục hiện ra. Những nhiệm vụ anh đã thực hiện, những cuộc chiến anh đã chiến đấu. Giết chóc, tàn sát và lừa dối.

‘Ta không phản bội lại điều gì cả,’ Abaddon nói. ‘Đó không phải là anh em của ta.’

‘Chỉ bởi vì họ đã lựa chọn khác anh?’

‘Bởi vì lòng trung thành đối với ta là tất cả,’ khi nói những lời này, bên tai Abaddon bỗng vang lên một sự thật xưa cũ mà anh đã luôn mang trong mình. Từ khi anh còn là một cậu bé đứng trong cái hang động tăm tối, cúi nhìn con dao sắp giết chết những người anh em của mình để đưa bản thân lên ngôi vua, ‘Chúng ta là anh em và là những người con trai của bộ tộc.’

‘Và điều đó đối với anh còn quan trọng hơn những lời thề với Đế chế Imperium, hơn cả bổn phận anh mang trên vai hay sự thật trong tim anh sao?’

‘Linh mục, ngươi không thể trung thành với một lý tưởng không có thực, đó cũng là điều mà anh em của ngươi đã học được từ đống tro tàn tạo thành bởi đức tin đầu tiên của các người.’

Một tiếng lạch cạch lạ lùng phát ra từ sau hàm răng bên dưới chiếc mặt nạ của Layak. Một giây sau, Abaddon nhận ra hắn đang cười.

‘Niềm tin là tất cả những gì tôi còn lại và lòng trung thành với một lý tưởng khác là lý do tại sao tôi ở đây.’

‘Là Hỗn mang – Chaos’ Abaddon nói, môi anh cong lên khỏi hàm răng.

‘Không …’ Layak lắc đầu và nói, ‘Là sự thật.’

Abaddon cảm thấy một câu hỏi khác đang dần hiện ra trong đầu nhưng anh nhanh chóng gạt nó đi và quay lại nhìn màn hình hiển thị trên cầu tàu.

Các con tàu của hai Quân đoàn Word Bearers và Thousand Sons đã tập hợp lại, tự tạo thành đội hình của riêng chúng giữa những chiếc tàu khổng lồ thuộc hạm đội của Abaddon, một lưỡi kiếm được ẩn giấu tinh vi giữa những lưỡi khác của ngọn giáo. Các tàu của lực lượng thứ ba này có số lượng rất ít, chỉ mười hai chiếc, nhưng chừng đó là đủ cho mục đích đã được vạch sẵn; vai trò của chúng trong kế hoạch yêu cầu chúng không được để bị nhìn thấy bởi đôi mắt của lực lượng bảo vệ hệ Sol đang rải rác đâu đó ngoài kia. Trong vòng một giờ tiếp theo, hạm đội dưới quyền Abaddon sẽ chuyển hướng và bắt đầu giai đoạn tiếp theo của quá trình hành quân đi sâu vào bên trong hệ sao. Trong lúc đó, các tàu của Thousand Sons và Word Bearers sẽ giữ nguyên hướng đi và tắt toàn bộ động cơ, thả trôi tự do trong im lặng và bóng tối, chìm dần xuống vực sâu giữa các hành tinh đang quay quanh Mặt trời. Chỉ khi ở đủ gần mục tiêu thì các động cơ mới được khởi động trở lại. Một phép ma thuật phù thủy sẽ bao bọc quanh các con tàu, đẩy lùi những con mắt tò mò và làm thui chột các ý nghĩ dò xét hướng vào chúng. Lưỡi gươm bí mật của ngọn giáo sẽ được giấu kín cho đến khi nhiệm vụ của nó được hoàn thành.

‘Các thầy phù thủy của Prospero và các chiến binh trong Quân đoàn của tôi sẽ thực hiện đúng theo những gì đã được lên kế hoạch’, Layak nói, như thể đọc được suy nghĩ của Abaddon. ‘Nhưng con đường của tôi là ở bên cạnh anh, Ezekyle Abaddon, và tôi sẽ đi theo nó. Đó là sự lựa chọn của tôi, là nơi mà tôi cần có mặt. Hãy giết tôi nếu anh muốn, nhưng tôi vẫn sẽ ở lại. ‘

Abaddon không đáp chỉ hướng mắt nhìn xa xăm theo dõi vũ điệu của khoảng không vô tận trước mặt và khi anh quay người lại thì vị linh mục của Quân đoàn Word Bearers đã rời đi.

(phần 4)

Kẻ giết các vị vua

Ngọn giáo nhiều lưỡi

Bản chất của lưỡi dao

Warship Lance of Heaven , Vịnh Supra – Solar

Jubal Khan lắng nghe những tiếng vọng từ các giọng nói mờ dần trong tiếng tanh tác của liên kết vox. Anh nhìn vào một tech – adept đang liên kết vào cụm máy phát tín hiệu.

‘Gửi xác nhận đi’, Jubal ra lệnh. Sinh vật nửa người nửa máy gật đầu cùng tiếng vo vo của các bánh răng và đèn trên cụm thiết bị bắt đầu nhấp nháy như các chòm sao. Sẽ mất hơn hai giờ để tín hiệu vừa phát đi đến được Terra, đó là nếu nó có thể đến nơi một cách nguyên vẹn. Sự biến dạng đã gia tăng trên các kênh liên lạc trong nhiều ngày qua, những âm thanh kêu gào ầm ĩ liên tục xuất hiện như tiếng gió của một cơn bão đang kéo tới. Đôi lúc nó nghe giống những giọng nói, vang lên cao vút và đau đớn rồi bị nhấn chìm trong tiếng rít nhiễu sóng, chúng là những tiếng hét từ sâu thẳm bên trong tiếng gõ nhịp đều đặn của hệ thống.

Không, Jubal nghĩ. Thực sự có những giọng nói đằng sau tiếng động đó và anh đủ kinh nghiệm để biết rằng những cơn ác mộng đang bao trùm các astropath cũng hoàn toàn có thật. Cả hai đều là tiếng vọng của những người đã chết gào thét tìm cách trở lại thế giới của người sống, nhưng họ đang cố cảnh báo điều gì đó hay tất cả đơn thuần chỉ là những lời dối trá thì anh không thể xác định được.

Jubal ta từ từ quay đi khỏi bàn điều khiển vox. Cơ thể anh đau nhức mỗi lần chuyển động. Cứ như thể tất cả năm tháng cuộc đời mà anh đã sống đang đề nặng lên từng khớp xương. Jubal biết mình cần ổn định lại tinh thần trước khi cùng những người lính của mình tiếp tục lao vào ngọn lửa. Cơn bão … cơn bão đang đến … Anh có thể nghe thấy nó. Anh có thể cảm thấy nó…

Changshi đang đứng nghiêm đợi Jubal ở phía sau và nhìn vị chỉ huy của mình bằng đôi mắt xám không giấu được vẻ lo lắng. Changshi là một đứa trẻ của cơn bão. Giống như phần còn lại của lực lượng được biên chế trên chiếc Lance of Heaven, Changshi không đến từ hành tinh Chogoris (homeworld của Quân đoàn White Scars), bất chấp cái tên mà người lính trẻ đang mang. Cái tên ấy cũng giống như các cơ quan được cấy ghép vào cơ thể chỉ là một món quà giúp Changshi bay cao khỏi thế giới đại dương đã bị lãng quên nơi mà anh thực sự được sinh ra. Thực tế thì hiện nay có rất nhiều người giống như anh: những tác phẩm đến từ yêu cầu của hoàn cảnh bắt buộc, chỉ được tạo ra để dành riêng cho những thời điểm cay đắng như lúc này, họ là những chiến binh chưa bao giờ được tận hưởng niềm vui khi tham gia chiến tranh vì một lý do nào khác việc bắt buộc phải chiến đấu để giữ bản thân tiếp tục tồn tại. Cả bản năng tự nhiên và cái tên còn hầu như không có thời gian để hòa nhập vào con người của chàng trai trẻ này thì liệu số phận có cho Changshi đủ thời gian và cơ hội để trở thành người chiến binh mà cậu có khả năng để đạt tới một ngày nào đó hay không, Jubal cũng không biết chắc.

‘Vậy là chúng ta sẽ rút lui?’ Changshi cau mày hỏi.

Jubal nhìn sang và giữ lấy ánh mắt của người chiến binh trẻ tuổi trong một lúc lâu, rồi mỉm cười.

‘Đúng. Và cũng không đúng, ‘anh nói rồi rút một dải giấy da từ thắt lưng và đưa nó cho Changshi.

‘Chuẩn bị tín hiệu được ghi trên đây để gửi đến những con tàu còn lại của chúng ta và phải chắc rằng quá trình chuẩn bị phải được thực hiện xuyên suốt chiếc Lance .’

Người chiến binh trẻ tuổi đọc những dòng chữ Chogorian và hàng lông mày của anh chau lại sâu hơn.

‘Chỉ huy, tôi không -‘

‘Chúng ta có một nghĩa vụ phải thực hiện trước khi tuân theo mệnh lệnh được định sẵn của mình. Mũi nhọn của ngọn giáo quân thù gần như đã tiến vào lõi của hệ sao. Chúng ta đã theo dấu nó, đã cố gắng làm tiêu hao lực lượng địch nhưng sức mạnh của nó vẫn còn quá lớn và đòn tấn công sắp xảy ra sẽ mãnh liệt như một cơn bão đầy sấm chớp.’ Jubal dừng lại một giây, cân nhắc quyết định của mình một lần cuối. ‘Vậy nên, chúng ta phải lấy đi trái tim của khối sức mạnh ấy trước khi thời điểm đó xảy đến.’

‘Chỉ huy, đó là năm nghìn con tàu … Chúng ta không có khả năng phá hủy chừng đó tàu đó ngay cả khi liên tục quấy rồi chúng trong mười nghìn năm tiếp theo …’

‘Ta nói rằng chúng ta cần lấy đi trái tim – cội nguồn sức mạnh của chúng và đó không phải là một con tàu. Đó là một người đàn ông, một chiến binh như người và ta. Vĩ đại và khủng khiếp nhưng cũng yếu đuối và dễ bị tổn thương giống như tất cả chúng ta … ‘Và sau đó Jabal giải thích cho người chiến binh trẻ tuổi điều sắp xảy đến.

Sau cùng, Changshi gật đầu đã hiểu nhưng khuôn mặt chợt đanh lại.

‘Điều gì làm ngươi bận tâm đến thế?’ Jubal hỏi.

‘Ngài đã nói rằng chúng ta mang trên mình một nghĩa nhiệm vụ, nhưng làm thế nào chúng ta có thể thực hiện nghĩa vụ ấy khi nó chống lại mệnh lệnh dành cho chúng ta?’

Jubal cười lớn và để âm thanh vang vọng rồi từ từ biến mất.

‘Đối với ngươi, điều nào quan trọng hơn: tuân theo chính xác từng từ trong mệnh lệnh hay lắng nghe lời khuyên của linh hồn mình?’

Ánh mắt của Changshi trở nên kiên định hơn.

‘Nhưng khi mệnh lệnh ấy đến từ Đại hãn và Primarch Dorn thì liệu có sự khác biệt nào tồn tại không?’

‘Luôn luôn có,’ Jubal trả lời. ‘Lời nói hay từ ngữ chỉ là đứa con yếu ớt của ý chí và linh hồn. Để nhìn thấy sự thật ẩn giấu đằng sau, chúng ta phải nhìn xuyên qua chúng và tự hỏi rằng ý chí nào đã lay động trong linh hồn để tạo ra những lời nói đó. ‘

Jubal ta đưa tay xuống thắt lưng, rút con dao của mình ra. Anh tung nó lên không trung, bắt lắt phần lưỡi dao rồi phóng nó về phía Changshi. Người chiến binh trẻ tuổi dễ dàng bắt được nó. Lưỡi của con dao có chiều dài bằng cánh tay một người bình thường, có hình dạng uốn cong như mặt trăng và được đánh bóng sáng như gương. Những viên ngọc opals lấp lánh trên cán dao.

‘Đâm nó vào tim ta,’ Jubal ra lệnh.

Changshi nhìn anh một cách sắc bén.

Jubal nhe răng cười toe toét.

‘Hoặc ít nhất là cố gắng thử làm điều đó,’ anh lắp lại.

Changshi đứng yên trong một giây rồi xoay người hạ thấp trọng tâm của mình, lưỡi dao cong biến mất phía sau cơ thể. Đôi mắt anh nhìn xa xăm, không tập trung vào điểm nào cụ thể nhưng lại bao quát tất cả mọi thứ. Jubal đứng im chờ đợi, thả lỏng cơ bắp, hai tay đặt ngang hông, nụ cười vẫn giữ nguyên trên khuôn mặt. Changshi gật nhẹ đầu với chính mình như thể đã quyết định, sau đó dừng lại và mở miệng như sắp hỏi điều gì đó.

Bất thình lình, người chiến binh trẻ tuổi phóng lên phía trước.

Cơn gió của sự thật đây mà, nhưng đúng là tốc độ của thằng bé rất khá, Jubal nghĩ thầm. Động tác nghi binh cho đòn tấn công được Changshi thực hiện rất tốt bằng cách kết hợp giữa khả năng chớp thời cơ và đánh lạc hướng đối thủ một cách tinh vi. Nhưng đây là Jubal Khan, người đã đối mặt và đánh bại nhiều bậc thầy vũ khí thuộc hàng ngũ những người vĩ đại nhất của thời đại. Jubal xoay nửa người để lưỡi dao đâm trượt qua rồi đưa tay lên, kẹp chặt cả cổ tay và bày tay cầm vũ khí của Changshi, rồi ném cậu ấy ra xa bằng một cú xoay người thật mạnh. Người chiến binh trẻ đáp xuống trên hai chân với đầu óc còn mờ mịt. Jubal gõ nhẹ mặt phẳng của con dao vào đầu Changshi khi cậu ấy đứng lên.

‘Cũng không tệ,’ anh nói.

Changshi nhắm mắt lại và Jubal gần như có thể nghe thấy những lời tự trách thầm lặng đằng sau hàm răng đang nghiến chặt của người lính trẻ.

‘Ngươi biết bản chất của cái chết là gì đúng không?’ Jubal hỏi.

Changshi thở ra một hơi và mỉm cười.

‘Đủ để ôm nó như một người anh em và cười vào mặt tử thần khi hắn tìm đến.’

‘Giỏi lắm,’ Jubal lại cười toe toét, ‘còn bản chất của lưỡi dao thì sao?’

‘Là phải trở nên thật sắc bén.’

Jubal cười khúc khích.

‘Đúng … nhưng chưa đủ.’ Jubal bước đi, quay người lại và xoay nhẹ hai vai. ‘Hành động đâm con dao xuyên qua trái tim của kẻ địch luôn là mục đích cuối cùng chúng ta nhắm đến. Nhưng để thực hiện nó thì lại là một chuyện khác.’ Anh gần như có thể nhìn thấy câu hỏi đang hình thành trên môi Changshi, có thể nghe thấy tiếng cậu hít vào lấy hơi trước khi nói ra.

Jubal xoay người và chém xuống bằng con dao trong tay một cách đột ngột. Changshi đỡ được đòn tấn công đầu tiên. Nhanh, rất nhanh, Jubal đảo ngược con dao, móc nó vào cánh tay của chàng trai trẻ và giật mạnh để đẩy dạt sự phòng thủ của cậu sang một bên. Changshi nhanh chóng đứng vững lại, nhưng Jubal đã búng con dao sang tay còn lại rồi đập mạnh lòng bàn tay vào giáp ngực để buộc cậu phải lùi lại trước khi vung dao chém xuống và Jubal vẫn kịp đổi tay cầm vũ khí một lần nữa trước nhát chém bị chặn lại sau đó xoay người bước ra khỏi phạm vi tấn công của Changshi. Chàng trai trẻ định lao theo, nhưng Jubal đã giơ tay ngăn lại.

‘Nhìn đi,’ Jubal nói, dùng mũi dao chỉ vào áo giáp của Changshi. Người chiến binh trẻ tuổi nhìn xuống. Cậu thấy những vết cắt dài in hằn trên lớp giáp chạy dọc từ khuỷu tay đến cổ tay của mình. ‘Và với đòn đánh tiếp theo, một nhát chém khác sẽ nhắm vào …’ Jubal nói trong khi bước lại gần Changshi và gõ đầu lưỡi kiếm vào phía trên cánh tay của người chiến binh trẻ tuổi, vào chỗ những ngón tay của cậu. ‘Với mỗi nhát chém, một chút sức mạnh của kẻ địch nữa sẽ trôi đi, một chút giận dữ sẽ gieo mầm vào trái tim và thêm một chút mù quáng sẽ hằn lên đôi mắt hắn, cho đến khi …’ Anh gõ con dao vào phần giáp ngực đang che chắn trước trái tim của Changshi.

‘Cho đến khi đòn đánh vào trái tim kẻ thù trở nên vô hình và không thể bị chặn lại.’ Changshi tiếp lời. Jubal gật đầu, hất nhẹ tay xoay cán dao lại và đưa nó cho chàng trai đang đứng trước mặt mình.

‘Đó chính là bản chất của lưỡi dao, của cuộc sống và của cả chiến tranh … Ngươi sẽ giết người bằng cú đánh cuối cùng, nhưng những vết chém trước đó mới là thứ cho phép đòn tấn công cuối cùng ấy trở thành sự thực. Ngay cả Horus, bậc thầy của ngọn thương, cũng đã từng đến biết sự thật đó. Và bây giờ chúng ta sẽ sử dụng nó để giết bất kỳ người con trai nào mà hắn đã gửi đến để chỉ huy hạm đội ngoài kia.’

Changshi cầm lấy con dao và ngắm nhìn nó, hình ảnh phản chiếu của lưỡi dao hình liềm lọt in trên đôi mắt xám của anh. Nó là một vũ khí tuyệt đẹp, được tạo ra trên Chogoris và được trang bị thêm các máy phát trường năng lượng bởi các thợ rèn của Quân đoàn. Nó đã từng thuộc về cha của Jubal và được trao cho anh khi Jubal quyết định bỏ gia đình và phần người còn lại trong mình lại phía sau. Giờ đây, một người chiến binh trẻ tuổi mang một cái tên Chogorian dù chưa bao giờ nhìn thấy bầu trời của nó, đang ngắm nhìn con dao và một sự thật dần hiện ra trong mắt anh ta.

‘Chỉ huy, tôi không thể nhận lấy nó …’

‘Ngươi có thể và ngươi sẽ làm thế. Cũng giống như việc ngươi sắp không còn ở bên cạnh ta mà sẽ gia nhập vào lực lượng Blade of the Endless Horizon trước khi cuộc tấn công diễn ra. ‘

‘Nhưng -‘

‘Ngươi nên nhận lấy con dao của ta và cả bản chất bên trong nó khi mà trận chiến này ngày càng xoáy sâu vào cổ họng của hệ mặt trời, thậm chí còn xa hơn thế nữa.’ Jubal ta dừng lại. ‘Ai đó sẽ phải băng qua cả đường chân trời phía xa kia.’

Người chiến binh trẻ tuổi gật đầu và Jubal bắt đầu quay lưng bước đi.

‘Ngài đã nói rằng Horus cũng biết về bản chất của lưỡi dao trong chiến tranh…’ Changshi ngập ngừng. Jubal quay lại nhìn cậu, cảm thấy bộ dạng cau có lại sắp hiện ra trên khuôn mặt. ‘Vậy thì chẳng phải chúng ta có thể không đang chiến đấu với những nhát chém cũng như không nhìn thấy con dao đang chực chờ đâm vào trái tim của chúng ta hay sao?’

Jubal chớp mắt và sau đó mỉm cười.

‘Có lẽ thế thật,’ anh đáp. “Nhưng dù có chuyện gì xảy ra đi chăng nữa** **thì chúng ta sẽ vẫn phải chiến đấu thôi, đúng không.’

CHƯƠNG 10

(phần 1)

Sự chuộc tội

Strike Frigate Persephone, bên ngoài hệ Sol

Những người bảo vệ cuối cùng của Pluto đang rút lui về phía ánh sáng của mặt trời. Trên những con tàu đầy vết thương, chằng chịt sẹo cùng với máu từ trận chiến vẫn còn ghi dấu khắp nơi, họ vẫn tiếp tục cuộc hành trình. Hạm đội khởi đầu với hàng trăm chiến hạm giờ đây chỉ còn một lực lượng xấp xỉ một trăm chiếc. Ophelia và Persephone bay vòng quanh những người chị em của mình, quan sát hạm đội đang di chuyển và cảnh giác với khoảng không xung quanh. Dù hiện tại họ không nhìn thấy kẻ thù truy đuổi mình, nhưng họ biết chúng có mặt đó. Aximand dù đã phải chịu những tổn thất nặng nề, nhưng những con tàu mới vẫn đang tiếp tục tiến đến từ Warp. Chắc chắn sẽ có những tên thợ săn đang theo dấu phía sau lưng hạm đội, chúng là những con tàu nhanh nhẹn mang theo trong mình những dự định tàn bạo nhất.

Một số binh lính sống sót đã ngã xuống ngay trong lúc hạm đội đang rút lui. Động cơ ngừng hoạt động, thân tàu chồng chất vết thương vỡ ra dưới sức ép của gia tốc. Sword Sister, chiến hạm đã trụ vững qua hàng vô số trận chiến kể từ những thập kỷ đầu tiên của cuộc Thập tự chinh vĩ đại giờ đây trở thành một nấm mồ kim loại chết chóc, chậm rãi xoay vòng hàng giờ liền theo phần quán tính còn lại. Bên cạnh nó, chiếc Sign of Truth nhanh chóng tách xa khỏi đội hình khi các lò phản ứng đã bị hư hỏng của nó bắt đầu quá tải. Ánh sáng phát ra từ cái chết của con tàu băng qua khoảng không tối tăm, mải miết đuổi theo những người chị em còn sống sót đang dần đi xa.

Trên đường rút lui, xuyên qua vùng vịnh của đêm đen, thân tàu của họ rền rĩ vì hư hại, những con người trong phi hành đoàn cảm thấy cả thế giới xung quanh như sụp đổ còn những chiến binh của Quân đoàn thì đang cố tháo bỏ lớp giáp vỡ vụn dính chặt vào phần cơ thể đẫm máu của mình; hạm đội lặng lẽ bay ngang qua xác tàu của tất cả những kẻ xâm lược và nổi loạn đã bị tiêu diệt qua hàng thiên niên kỷ dài đằng đẵng kể từ khi loài người lần đầu tiên rời khỏi cái nôi của mình.

Trong khoang tàu Persephone , Sigismund dừng lại ở ngưỡng cửa trước điện thờ thiêng liêng. Phần áo giáp còn lại hay chính xác hơn là những mảnh vỡ treo trên người anh, mài vào nhau ken két theo từng bước di chuyển. Máu thấm ướt bên trong chiếc áo khoác ngắn và dần vón cục lại bên dưới những tấm giáp. Anh cảm thấy lạnh, nhịp đập nóng rực trong huyết quản đã lặng đi sau cơn thịnh nộ được giải phóng trên chiến trường.

‘Đây là điều chờ đợi tất cả chúng ta ở phía cuối con đường.’, Fafnir Rann cất tiếng nói từ bên cạnh anh, ‘Dù bằng kiếm hay đạn, nó cũng sẽ đến với tất cả chúng ta mà thôi.’. Sigismund hướng mắt nhìn người đội trưởng Đội Đột kích. Máu và vết thương vẽ nên một bức tranh trên áo giáp của Rann, nổi bật lên trên là phần máu khô che mất nửa khuôn mặt. ‘Cậu ấy đã tự chọn cách để đối diện với nó. Không ai trong chúng ta có thể đòi hỏi thêm điều gì nữa.’, Rann dừng lại một chút và nhìn chằm chằm vào Sigismund, ‘Và anh, Sigismund, anh cũng không thể giúp được cậu ấy thêm điều gì nữa.’

Sigismund khẽ gật đầu và mở cửa.

Không gian bên trong nhỏ với ánh sáng yếu ớt. Những bức tường ốp đá chạy thẳng lên mái vòm cong phía bên trên. Tên của tất cả những chiến binh đã từng gọi con tàu này là nhà và hy sinh trong trận chiến phủ kín trên mọi bề mặt, được khắc bằng những chữ cái mạ vàng. Cánh cửa đóng lại phía sau Sigismund. Tiếng máy móc nhỏ đập khi chốt khóa kép kêu vang lấp đầy sự tĩnh lặng.

Phần còn lại của một hình dáng từng là một con người đang nằm dưới một vùng ánh sáng mờ. Họ đã cố gắng giải thoát anh khỏi bộ giáp, nhưng áo giáp và da thịt của anh đã không thể tách rời nhau nếu không kết thúc những gì bọn Sons of Horus đã bắt đầu. Chằng chịt ống dẫn nối từ các khối máy móc và các bình chứa chất lỏng sẫm màu. Một bong bóng thở rít lên từng hồi, được điều khiển bởi máy hút chứa đầy chất lỏng nối trực tiếp với phổi, nhịp nhàng dâng lên rồi hạ xuống theo tiếng bíp của cái máy và tiếng đập thùm thụp của các ống dẫn.

Sigismund bước lên phía trước. Áo giáp của anh nghiến vào nhau. Một thứ gì đó trong mớ hỗn loạn giữa thịt tươi nhớp nháp và lớp ceramite bị xé rách hé mở và cố cử động.

‘C … h …’ âm thanh sủi bọt. Phải mất một giây, Sigismund mới nhận ra đó là một từ, anh cố gắng rút ra từng chữ từ cái âm thanh sôi ùng ục ấy bên cạnh tiếng máy thở đang kêu vang đều đặn. ‘Chúa tể…’

Ngay lập tức, Sigismund quỳ xuống làm những servos cảm ứng kêu rền rĩ, ánh mắt anh dán chặt vào mắt Boreas.

‘Không,’ Sigismund nói. ‘Ở đây, tôi không phải là chỉ huy của anh, người anh em.’

‘N… g… a…’ Boreas thì thào. ‘Ngài còn sống…’

Sigismund gật đầu.

‘Các Tech – priest …’

‘Tôi … biết … tôi sẽ … không thể … đi vào … giấc ngủ … trong quan tài sắt,’ Boreas nói. Sigismund lắc đầu buồn bã. Anh biết, sẽ không có sự tái sinh như một Dreadnought dành cho Boreas, không có lựa chọn cuộc sống với một nửa cơ thể bằng kim loại và chỉ biết đến chiến tranh cho đến khi cái chết lần thứ hai tiến đến.

Sigismund cúi gục đầu.

‘Tại sao…’ Từ đó khiến anh ngẩng lên. Mắt Boreas dán chặt vào Sigismund, sáng ngời và không chớp. ‘Tại sao … ngài … lại muốn … chết?’

Sigismund thấy trong tâm trí mình lóe lên những lưỡi kiếm và khuôn mặt của bọn Sons of Horus.

Rất nhiều… Quá nhiều.

‘Tôi…’ Sigismund ngập ngừng và giờ đến lượt lời nói của anh trở nên ấp úng. Anh chợt lặng thinh. Chỉ còn tiếng rít của máy thở và tiếng ọc ọc của những ống dẫn tràn ngập. Cuối cùng, anh nói: ‘Đó là Sự chuộc tội’.

‘Cho … điều gì?’

‘Cho một lời thề đã bị phá vỡ.’ Sigismund đáp. Ánh mắt của Boreas nhìn chằm chằm trong lúc anh nói cùng với tiếng máy móc đếm nhịp từng giây. Và Sigismund chợt nhận ra mình đang kể lại mọi thứ. Anh kể về Euphrati Keeler, về những ngày sau khi tin tức đầu tiên về sự phản bội của Horus tìm đến Dorn. Anh kể về viễn cảnh trong tương lai mà cô đã cho anh thấy cùng với những chọn bắt buộc đi kèm: hoặc anh đứng tại đây, tại thời điểm này, giương cao thanh kiếm để chống lại bóng tối đang ập đến hăm he muốn nuốt chửng mặt trời, hoặc anh tuân theo mệnh lệnh của vị Primarch và dẫn theo một hạm đội tấn công vào Horus ngay trong những ngày đầu của cuộc chiến. Sigismund nói về cách anh đã chọn, cách anh đã cùng Dorn trở về Terra và khi hạm đội đáng ra phải do anh chỉ huy bị tiêu diệt, anh đã nói với Dorn về lý do vì sao mình quay trở lại cùng nỗi sợ về ý nghĩa đằng sau viễn cảnh do Keeler tiên đoán. Và cuối cùng, anh kể về cơn thịnh nộ của Dorn như một lý do sau chót.

Ngươi không phải là con của ta. Những từ đó vang vọng lặp lại trong tâm trí khiến anh lặng người đi trước cả khi chúng được phát ra từ miệng anh.

‘Tôi đã thất bại’, Sigismund nói, ‘và tôi đã thề rằng tôi sẽ không bao giờ làm ngài ấy thất vọng một lần nữa.’

‘Ngài … đã … lựa chọn đúng …’

‘Đó không phải là điều mà chúng ta có quyền phán xét.’

‘Cái chết… không phải là… sự chuộc tội,’ Boreas nói. ‘Thậm chí … là vào lúc này … đến cuối cùng …’

Sigismund cảm thấy có gì đó lạnh lẽo đang bóp nghẹt bên trong anh. Ánh mắt của Boreas đã dần trở nên xa xăm, nhịp điệu vốn nhịp nhàng của những chiếc máy bơm tăng dần lên, chuyển động của chúng đang trở nên mãnh liệt hơn. Các ống dẫn và bình chứa hình cầu kêu vang ùng ục làm hợp chất bên trong bắn tung tóe. Chất lỏng ở những chiếc lọ đã dần chuyển sang màu đen sẫm.

‘Ngài … phải chuộc lỗi … bằng cách … sống … cho đến … cho đến khi … cú đánh … cuối cùng của thanh kiếm được hoàn thành.’ Thứ gì đó trong đống đổ nát còn lại của da thịt và áo giáp xoắn vào nhau đang dịch chuyển. Có thể là một bàn tay vươn tới để cố nắm lấy điều gì đó hoặc chỉ là cơn co giật sau cùng của sự sống đang chảy ra khỏi một cơ thể tàn tạ khi lồng giam ý chí không còn đủ khả năng níu giữ nó. ‘Cho đến khi … hoàn thành cú đánh cuối cùng … của thanh kiếm … Hãy thề với tôi đi.’

‘Anh đã có lời thề của tôi.’ Sigismund đáp.

Máy móc đã ngừng hoạt động. Tiếng báo hiệu cao vút chói tai thay thế cho tiếng rít sủi bọt và tiếng đập mạnh thường lệ.

‘Và ngài … mãi luôn … là người anh em của tôi…’ Boreas nói. Mắt anh sáng rõ trong giây phút cuối cùng, ánh mắt kiên cường nhìn thẳng vào Sigismund. ‘Luôn luôn.’

Bên ngoài những bức tường đá của căn phòng, xa bên ngoài thân tàu đang bay lướt qua khoảng không vô định, vượt xa cả những con tàu còn lại của hạm đội theo sau nó, Hệ Mặt trời bừng sáng, lặng im nhưng chưa bao giờ ngừng lại.

(phần 2)

Những mạng sống nhỏ bé

Tàu chở hàng Antius , Vịnh Trans – Saturian

Vek dừng lại bên ngoài cửa phòng ngủ của mình, nhẹ nhàng chạm vào tay nắm cửa. Xung quanh anh, tiếng vo ve đều đều từ động cơ khi con tàu lướt qua khoảng không rung động nhẹ nhàng trong không khí. Đèn trong tất cả các khoang và lối đi chuyển sang mờ dần khi bắt đầu vào chu kỳ đêm. Những bóng đen lặng lẽ lấp đầy mọi ngóc ngách của con tàu. Ngay trên cầu tàu, những thủy thủ đoàn trong ca trực cũng rất ít trò chuyện với nhau. Hầu hết đã ngồi xuống và cố ngủ. Nhưng Vek lại không thể. Những suy nghĩ bám theo anh từ khoảng khắc ồn ào và hỗn loạn của chuyến bay thoát khỏi Uranus không hề mờ nhạt trong suốt khoảng thời gian tĩnh lặng vừa qua.

Anh về phòng để thăm chừng những đứa con của mình và thấy chúng đang ngủ. Noon đang nằm trên giường, miệng há to, ngáy khò khò, hai tay ôm lấy đầu, thằng bé cau mày và trở mình khi Vek hôn lên trán nó. Mori thì không. Cô bé ôm lấy chiếc chăn và cuộn tròn trong góc phòng. Một cuốn sổ ghi chép tự động tuột khỏi tay cô bé, nằm trên sàn phòng. Vek nhẹ nhàng nhặt nó lên. Cô bé chợt hít một hơi như đang sắp sửa la lên điều gì đó, đầu ngẩng nhẹ và nhìn như thể sắp mở mắt. Vek như đóng băng tại chỗ nhưng đầu của Mori lại từ từ đã ngả ra sau. Sau một lúc, hơi thở của cô bé đã trở lại nhịp điệu chậm rãi của giấc ngủ. Mori đang cau mày, chỉ trong nháy mắt suy nghĩ của Vek sáng lên, anh đã thấy vẻ mặt giống hệt như vậy trong trí nhớ của mình, đó là khuôn mặt của mẹ cô bé.

Vek liếc nhìn những dòng chữ Mori vừa ghi lại trên cuốn sổ.

Tôi không biết chúng tôi đang đi đâu. Không ai nói với tôi. Có lẽ họ không muốn nói hoặc có thể họ cũng chẳng biết.

Anh nhìn những dòng chữ một lúc lâu và sau đó đặt cuốn sổ trở lại bên cạnh con gái mình, cúi xuống hôn nhẹ cô bé rồi đi ra cửa. Trong hành lang mờ tối về đêm, anh xoa lòng bàn tay lên trên đôi mắt. Khi anh ngừng lại, những vệt bóng mờ từ ánh đèn neon vẫn đang đung đưa trước mặt anh.

Tôi không biết chúng tôi đang đi đâu…

Anh nên suy nghĩ, thử nghĩ xem họ sẽ làm gì khi đến được Jupiter. Liệu cuộc chiến đã lan đến đó chưa? Hay họ có đủ thức ăn để di chuyển đến đó không?

Cơ thể Vek lắc lư.

Anh cảm thấy mệt …

Chân anh ấy bắt đầu bước đi một cách mờ mịt …

Anh biết mình nên đi ngủ…

Nhưng anh không thể, không thể ngủ được. Không phải bây giờ…

Anh bước đi, sàn tàu rung rinh theo nhịp điệu quen thuộc đã từng mang đến cho anh sự thoải mái. Anh bước đi trong lúc thế giới, quá khứ cùng những câu hỏi quay cuồng trong đầu, cho đến khi anh nhận ra mình đã dừng lại.

Anh chớp mắt trước cánh cửa căn phòng trước mặt. Vek bắt đầu tự hỏi tại sao mình lại ở đây. Nhưng, tất nhiên, anh biết rõ lý do …

Anh giơ tay gõ.

‘Cô Oliton,’ Vek gọi.

Cánh cửa mở ra từ bên trong trước khi anh gọi lại lần nữa.

Phía trong phòng, đèn đã bật sáng và Mersadie Oliton đang nhìn anh. Biểu hiện trên khuôn mặt cô lúc này làm anh không thể phân biệt được: đó là nỗi buồn hay sự cam chịu?

‘Anh chắc có nhiều điều muốn hỏi,’ Mersadie nói và quay trở lại chiếc ghế đặt bên dưới ngọn đèn phát sáng. Vek nhận thấy chiếc giường trong phòng chưa được sử dụng. Cô nhấc chiếc cốc từ cái bàn thấp và đặt nó lên môi. Hơi nước và mùi caffein bốc lên từ nó. Anh liếc nhìn nơi đặt cái bình samostill để trang trí, nằm trên cái bệ ở đầu kia của căn phòng. Một khoảng trống nhỏ trên sàn vừa được tạo ra bên cạnh nó, một số cạnh của cái hố đang nghiến vào lớp gỗ bóng loáng. Có tiếng sủi bộ và tiếng sôi ục ục cùng một luồng hơi nước bốc lên từ cái ống nhỏ bằng đồng.

‘Tôi đã nghĩ rằng cái bình samostill ấy chỉ dùng để trang trí …’ Vek nói. ‘Và tôi cũng chắc chắn rằng mình chưa bao giờ sử dụng nó.’

‘À,’ Mersadie nói, ‘điều đó giải thích tại sao tôi đã phải mất quá nhiều thời gian để làm cho nó hoạt động.’

Vek nhìn và nghĩ rằng anh vừa thoáng thấy nụ cười vụt qua như thể một bóng ma trên khuôn mặt cô.

‘Xem ra, chúng ta dường như không thiếu caffeine.’

‘Đó là một phần trong công việc kinh doanh của gia đình,’ anh nói. ‘Chúng tôi đã độc quyền vận chuyển cho Kaderine Caffeine qua quỹ đạo của Uranus trong mười hai thập kỷ vừa qua …’ Anh bước vào khi nhận ra mình vẫn đang đứng bên ngoài cánh cửa đã mở.

‘Anh có muốn uống một chút không?’ Mersadie hỏi. ‘Tôi nghĩ rằng tôi đã pha hơi quá nhiều.’

‘Không,’ Vek nói khi xoay người lại để đóng cửa. ‘Không đâu, tôi nghĩ là tôi có thể sẽ muốn đi ngủ sau một lúc nữa thôi, nhưng cũng cảm ơn cô. Uống quá nhiều thứ đó sẽ khiến cô không thể ngủ trong nhiều ngày đấy. ‘

‘Đó là điều tôi đang hy vọng …’ Mersadie đáp.

Họ chìm vào im lặng khi Vek ngồi xuống một trong những chiếc ghế khác trong phòng trong khi Mersadie nhấp một ngụm từ chiếc cốc trong tay và chờ đợi.

Vek định mở miệng, không chắc mình sẽ nói gì, nhưng Mersadie đã lên tiếng trước.

‘Anh muốn biết về cô ấy, đúng không? Về Keeler. ‘

Vek ngậm miệng lại, rồi gật đầu.

‘Vâng,’ anh đáp.

‘Anh là người có đức tin, phải không? Anh là một tín đồ của giáo phái Lectitio Divinitatus.’

‘Là vợ tôi…’ Vek nói rồi dừng lại, miệng anh đóng mở liên tục. ‘Không, không hẳn, nhưng …’

‘Đó hẳn là một điều nguy hiểm khi trở thành một phần của một giáo phái bị cấm đoán – nhưng mọi việc thậm chí sẽ còn tệ hơn nếu linh hồn của anh lại không có đức tin.’

‘Tôi … Cô … Cô có …’

‘Tôi có đức tin không?’ Mersadie hỏi. Cô mỉm cười, nhấp thêm một ngụm, rồi bật cười một tiếng ngắn. ‘Tôi đã nhìn thấy nhiều thứ … Khi anh đã biết đến sự thật rồi thì liệu có còn chỗ cho niềm tin hay mọi thứ đều chỉ phản ánh thực tại?’

‘Nhưng Keeler,’ Vek nôn nóng, anh dường như có thể nghe thấy sự mong chờ từ những từ ngữ sắp phát ra từ miệng mình. ‘Cô ấy có thật chứ, cô quen cô ấy đúng không?’

Mersadie nhìn anh một lúc lâu, rồi đặt chiếc cốc xuống.

‘Tôi nợ anh, Ngài Vek, nợ anh lời cảm ơn và cả lời xin lỗi mà anh không cần phải chấp nhận chúng. Nhưng tôi không thể mang cho anh điều gì chắc chắn cả. Tôi thậm chí còn không thể mang đến hy vọng. ‘

‘Nhưng, cô đã nói rằng cô cần phải gặp Ngài Cận vệ, rằng vị thánh … cô Keeler đó –’

‘Anh có biết cuộc Thập tự chinh và những Kẻ phản bội đã dạy tôi điều gì không?’ Lúc này, Mersadie đang nhìn thẳng vào Vek, một sự cứng rắn hiện lên trong mắt cô. ‘Chúng ta chỉ là những sinh vật nhỏ bé, chúng ta là con người. Chúng ta mang rất ít ý nghĩa. Cuộc sống của chúng ta bị giới hạn và ngắn ngủi, còn ước mơ của chúng ta, cho dù là cao quý, cũng sẽ không thể làm thay đổi các vì sao trên bầu trời. Chúng ta không phải là động lực của thời đại này. Mà đó là Horus và Hoàng đế. Những lựa chọn, hy vọng và cả sự đổ nát đều phụ thuộc vào họ.’

Vek thở gấp, tay anh đang co giật. Mersadie vẫn ngồi tại chỗ.

‘Tôi xin lỗi, Ngài Vek,’ cô tiếp tục. ‘Anh đã hỏi về Keeler, về những gì tôi đang làm và tại sao tôi lại làm điều đó. Tôi nghĩ anh xứng đáng nhận được câu trả lời.’

‘Nhưng cô đang nói về …’ Anh dừng lại, nỗi sợ hãi toát lên ngay cả khi âm thanh của cái tên ấy chưa phát ra từ lưỡi anh. ‘Cô đang nói về vị Warmaster, không phải về vị thánh ….’

‘Bởi vì nếu có tồn tại những kẻ phản bội khủng khiếp cùng những vị thánh, thì hy vọng chính là vương quốc của họ, một vương quốc ở tầm cỡ vũ trụ chứa đầy những sự thay đổi, các cuộc tàn sát và cả nỗi đau vô tận. Họ là những người quyết định ngày mai sẽ ra sao hay liệu có ngày mai nào còn tồn tại sau tất cả mọi việc hay không. Chúng ta chỉ là con người, Ngài Vek. Cuộc sống của chúng ta chỉ quan trọng bởi số lượng. Chúng ta có thể mơ mộng hay tuyệt vọng hay bám víu vào những gì chúng ta có, nhưng những thứ đó chỉ sống trong chúng ta. Hy vọng của chúng ta là của riêng chúng ta và nếu vũ trụ này có quan tâm thì nó cũng sẽ chỉ xảy ra một cách tình cờ. Đó là lý do tại sao mọi người cầu nguyện hướng về Hoàng đế và gọi người bạn cũ của tôi là một vị thánh. Bởi vì trong sâu thẳm, họ biết rằng bản thân không thể thay đổi tiến trình to lớn của các sự kiện đang diễn ra ngoài kia. ‘

‘Cô có một cái nhìn thật ảm đạm, nhất là đối với một người vừa tuyên bố rằng đang cố gắng cứu lấy pháo đài cuối cùng của nhân loại.’

‘Tôi đã nhìn thấy Horus,’ Mersadie nói. ‘Tôi đã nghe thấy giọng nói của hắn. Một ngày nào đó, tất cả những người có thể nói về điều đó sẽ biến mất và không ai còn nhớ đến. Nhưng tôi vẫn nhớ và trong nhiều năm, tôi vẫn luôn cố gắng giữ lấy ký ức đó. ‘

‘Thật ư? Vì sao vậy?’

‘Bởi vì nó quan trọng . Những gì tôi thấy rất quan trọng . Horus vĩ đại hơn, cao quý hơn và khủng khiếp hơn bất kỳ con người nào từng tồn tại. Rồi anh sẽ thấy, đó không phải là vấn đề về lực lượng quân đội của hắn. Mối nguy hại không chỉ đến từ những đứa con trai của hắn. Mà đó là thứ hắn đã trở thành, một sinh vật vượt xa chúng ta, một thứ có tiếng nói giống chúng ta, mang khuôn mặt giống chúng ta, nhưng thực ra lại đến từ một trật tự khác của sự tồn tại. Hắn tồn tại theo một cách vĩ đại hơn. Từ những điều nhỏ nhất hắn làm cho đến những lựa chọn hắn đã thực hiện đều có thể gây ra những vết nứt trên lớp vỏ ngoài bao bọc lấy sự sống. Horus giờ đây là một sinh vật ở phía đối lập với chúng ta và hắn đã khiến một nửa thiên hà sụp đổ cùng sự phản bội của mình … ‘

‘Hắn đã thiêu rụi mọi thứ,’ Vek nói và bắt đầu đứng dậy. Anh có thể cảm thấy cơn nhức đầu dần hình thành xung quanh viền mắt. Đây không phải là điều anh đến để tìm kiếm, mà nó là lỗi lầm của anh khi bước đến đây.

‘Tôi không thể nói dối anh,’ Mersadie nói. ‘Anh đã làm quá nhiều để tôi không thể nói cho anh những gì tôi đặt niềm tin trước khi anh có thể lựa chọn những gì anh muốn tin. Tôi có thể nói với anh rằng tôi đang mang thông tin từ một người bạn cũ của tôi, người bây giờ là vị thánh của một giáo phái bất hảo tôn sùng Hoàng đế như một vị thần, người đã nói chuyện với tôi trong những giấc mơ. Anh có thể nghe điều đó và có quyền tin rằng tôi đang mang một thông điệp từ thần thánh đến vị Primarch, rằng tôi là người được chọn, rằng đây là điều chỉ mình tôi có thể làm được, rằng tôi đang làm theo ý muốn của Hoàng đế và rằng Ngài sẽ bảo vệ chúng ta. Anh có thể tin rằng anh đang làm điều đúng đắn và điều đó cũng có nghĩa là mọi thứ rồi sẽ ổn thôi…’ Cô bỏ lửng câu nói với giọng nhỏ dần kèm một cái nhún vai. Vek nhận ra rằng Mersadie trông rất mệt mỏi, kiệt sức theo cách mà anh nghĩ còn nặng nề hơn cả hậu quả của việc thiếu ngủ. Cô nở một nụ cười nửa miệng. ‘Hoặc anh có thể tin rằng tôi là một kẻ mất trí và nguy hiểm. Rằng đó là sai lầm tồi tệ nhất trong cuộc đời của anh khi đã giúp chúng tôi, rằng tất cả sẽ kết thúc theo một cách thật tồi tệ. Anh cũng có quyền tin như vậy.’ Cô đứng dậy, đi đến cái bình samostill và lại rót đầy cốc của mình. ‘Hoặc anh có thể tin tất cả những điều tôi vừa nói đều sẽ trở thành sự thật tại cùng một thời điểm nào đó trong tương lai vô định phía trước.’

‘Nhưng cô tin vào …’ Vek nói.

‘Tôi biết mình cần phải làm những gì có thể. Và vâng, tôi tin… Tôi tin rằng chúng ta nhỏ bé, và ước mơ của chúng ta không thể thay đổi những vì sao. Nhưng đôi khi những việc làm của chúng ta có thể thay đổi cả vũ trụ, ngay cả khi đó chỉ là tình cờ. Nếu anh muốn, anh có thể tìm thấy hy vọng của mình trong đó. ‘

Vek nhận ra anh đang mỉm cười.

‘Và như vậy là đủ?’

‘Đó là tất cả những gì chúng ta có’, Mersadie đáp.

Vek đứng dậy, rót một tách caffein và nhăn mặt. ‘Tôi luôn ghét thứ này.’ Anh bước ra cửa, kéo tay nắm và tiếng Mersadie lại vang lên.

‘Cảm ơn, Ngài Vek.’

‘Vì điều gì?’ anh hỏi, quay nửa người lại.

‘Vì đã có niềm tin.’

Vek lặng đi trong giây lát, không chắc mình có thực sự tin tưởng vào điều gì không, nhưng anh biết rằng mình đã thực hiện một lựa chọn.

‘Cô nên ngủ một chút đi,’ anh đáp và khép cánh cửa lại.

Chúa tể của chiến tranh

Chiến hạm Battle – Barge War Oath, Vịnh Supra – Solar

‘Chúng đến rồi,’ Abaddon thì thầm với chính mình khi nhìn thấy kẻ thù xuất hiện.

Những con tàu màu trắng xám tấn công không giống một hạm đội thống nhất mà bay theo một đội hình hoang dại, tựa như hỗn loạn và không có trật tự. Dẫn đầu là chiếc Blade of the Endless Horizon cùng đội tàu hộ tống lớp frigate được trang bị ngư lôi, chúng vẽ ra một đường xoắn ốc rực lửa bằng cách phóng ngẫu nhiên những quả ngư lôi và tiếp cận mục tiêu nhanh đến mức nhìn như đang lao thẳng vào họng súng của hạm đội địch. Nhưng không. Khi những loạt đạn đầu tiên từ các khẩu đội súng tầm xa khai hỏa, chúng lập tức bẻ lái và phân tán nhanh như những giọt nước chảy ra khỏi thỏi sắt nung đỏ.

Hai chiếc tàu song sinh lớp strike cruiser mang tên Truth of the Wind và Storm Soul gia nhập trận chiến. Cùng nhau, chúng chúi xuống phóng về phía hạm đội rồi đột ngột thay đổi quỹ đạo ngay rìa phạm vi tấn công của quân đoàn Sons of Horus. Hai con tàu bay cắt chéo qua nhau, lượn hình xoắn ốc và nhảy múa trong lúc những vụ nổ đuổi theo phía sau chúng.

Quan sát qua màn hình trong chiếc mũ đội đầu, Abaddon nhớ lại một câu chuyện được kể bởi Yoden Croweaver của Quân đoàn VI (Space Wolves). Khi các con tàu gặp nhau trên biển Fenris, các chiến binh sẽ điều khiển mái chèo của những con thuyền trong trang bị áo giáp đầy đủ với vũ khí sẵn sàng, một sợi dây được buộc từ mái chèo này sang mái chèo khác giữa những con sóng dâng lên rồi hạ xuống còn kẻ thù thì đang nhìn chằm chằm. Ngay cả khi một con thuyền phải đối mặt với hai mươi thuyền địch trong cơn bão, dù chỉ còn một mình, người chiến binh đơn độc vẫn có thể chèo lái cả con thuyền. Lúc này, Abaddon hiểu tại sao họ lại làm thế.

‘Để thể hiện sự khinh bỉ trước cái chết,’ Abaddon nói. ‘Để chứng tỏ rằng ngay cả khi bị áp đảo bởi quân số lớn hơn nhiều lần, chúng ta vẫn luôn xứng đáng với cuộc sống mà mình đã lựa chọn.’

Yoden nhún vai và gật đầu.

‘Có cách nào khác để đối mặt với cái chết hay hơn việc cười vào mặt nó chứ?’

Đợt ngư lôi đầu tiên đã bắn trúng mục tiêu. Các vụ nổ bùng lên bao phủ những con tàu bay dẫn đầu hạm đội. Lửa và plasma xé toạc các vết thương trên lớp da bọc thép. Trong một tá tàu chiến ngoài kia, hàng nghìn người đã chết trong ánh đèn hiển thị nhấy nháy trước mắt Abaddon.

‘Không có dấu hiệu của chiếc Lance of Heaven sao?’ anh nói vào vox.

‘Vẫn chưa, người anh em,’ Krushan trả lời. Abaddon đã giao lại quyền chỉ huy cho người đội trưởng kỳ cựu của mình.

‘Nó sẽ sớm xuất hiện,’ Abaddon đáp. ‘Lập tức xác nhận ngay khi nó tiến đến.’

‘Như anh muốn, người anh em.’

Abaddon ngắt vox, nhưng vẫn giữ nguồn thông báo cập nhật dữ liệu cảm biến chạy ở góc mắt phải khi anh đi vào buồng dịch chuyển. Một đám đông chiến binh mặc giáp đen chào đón anh bằng nắm đấm và vũ khí giơ cao. Đây là những người giỏi nhất, tinh nhuệ nhất của Đại đội 1: Justaerin, Reavers và Death Marked. Tất cả họ đã chiến đấu bên cạnh nhau trong nhiều năm trước và đã trưởng thành một cách mạnh mẽ trong các trận chiến diễn ra sau đó. Đằng kia là Sycar, trung úy và chỉ huy đội phụ trách tấn công động cơ cùng hệ thống ống dẫn năng lượng của mục tiêu, anh cười toe toét với Ralkor khoe hàm răng sắc nhọn như thép; Tybar và đội của anh ta đang bận rộn đính những tờ giấy da tuyên thệ vào khẩu bolter của họ. Một số đeo những lá bùa biểu hiện cho việc đã thành lập liên minh với một trong rất nhiều dạng sức mạnh đến từ Warp.

Abaddon bước giữa họ, đáp lại những lời chào bằng một cái gật đầu, dừng lại để bắt lấy bàn tay của Gultaron, một chiến binh trẻ vẫn đang hồi phục sau những vết thương khi truy đuổi đám Chó sói Wolves trong hệ Beta Garmon.

‘Đội trưởng,’ Gultaron nói và gật đầu chào ngắn gọn. Abaddon bước đi tiếp, cảm thấy sự căng thẳng trước trận chiến đang tăng lên và lan truyền khắp binh lính như sấm sét gầm rú trước cơn bão. Anh mỉm cười bên trong chiếc mũ của mình. Đây là nhà của anh. Trong khoảnh khắc đứng giữa những người anh em và chiến binh của mình, anh ấy cảm thấy vũ trụ tự đi vào quỹ đạo cần thiết, mọi thứ trở nên thật rõ ràng và ở đúng vị trí mà chúng nên tồn tại.

Urskar và Gedephron đang đứng cùng nhau, người hầu serf tụ tập xung quanh họ lắp những tấm giáp Cataphractii cuối cùng vào vị trí. Các nòng súng của khẩu reaper cannon trên tay Urskar quay vòng khi các hộp đạn hạng nặng được khóa chặt vào bộ nạp của nó. Cái mũ giáp đỏ thẫm của anh lấp lánh những vết sẹo màu bạc như một hình ảnh đại diện cho khuôn mặt bên dưới nó. Gedephron thì đang bật tắt trường năng lượng trên cây chùy power mace của mình trong lúc xoay nhẹ cổ tay và vai.

Họ không cúi đầu chào khi Abaddon tiến lại gần hay thể hiện cử chỉ nào là quen biết anh vì đơn giản là họ không cần phải làm vậy. Urskar và Gedephron đã chiến đấu bên cạnh Abaddon lâu hơn bất kỳ người nào khác ở đây. Cả hai đã từng cứu mạng anh và anh giống như người thân trong gia đình. Abaddon là đội trưởng của họ nhưng Urskar và Gedephron không cần dấu hiệu nào để thể hiện mối ràng buộc được tạo thành từ sự tôn trọng và máu đang tồn tại để kết nối cả ba người.

Abaddon đang định lên tiếng thì chợt cảm thấy sự im lặng bỗng chốc tràn ngập căn phòng. Đầu của Gedephron thình lình giật mạnh trên phần còn lại của cơ thể vẫn đang bất động.

‘Những con chó của tro tàn …’ anh lớn tiếng gầm gừ. Abaddon quay lại, nhìn theo ánh mắt người anh em của mình. Layak và hai tên kiếm nô slave blades của hắn đang đi ngang qua boong tàu. Tiếng nói chuyện rôm rả và tiếng quát tháo im bặt. Những cặp mắt nhìn chằm chằm theo dõi ba tên Word Bearer. Abaddon đứng tại chỗ, cảm thấy ngọn lửa dần bốc lên khiến đầu lưỡi anh rụt lại, môi cong lên khỏi hàm răng.

‘Các ngươi ở đây làm gì?’

Layak dừng lại, chậm rãi nhìn xung quanh.

‘Để cùng anh đối mặt với kẻ thù,’ hắn đáp.

Căn phòng vẫn tĩnh lặng. Tất cả những gì cần thiết lúc này chỉ là một cử chỉ ra hiệu dù là nhỏ nhất, thậm chí không cần bất cứ một lời nói nói và tên Word Bearer sẽ trở thành ba cái xác nằm trên sàn tàu. Một lần nữa câu hỏi tại sao anh lại để Layak ở lại hiện lên trong đầu Abaddon và anh vẫn chưa tìm được câu trả lời đủ rõ ràng cho mình.

Abaddon xoay lưng lại với chúng mà không trả lời, mắt liếc nhìn nguồn cấp dữ liệu cảm biến của con tàu và để nó lấp đầy mắt phải anh. Ánh sáng của những vụ nổ chớp nhoáng có kích thước hàng trăm km hiện lên trước tầm nhìn của mọi binh lính trong căn phòng.

Bọn White Scars đang tiến đến lần nữa, xoay vòng với đội hình mới vừa thay đổi, các con tàu di chuyển giữa các phi đội như những con chim lượn vòng xoắn ốc trên đầu ngọn gió. Đó là một cảnh tượng đáng kinh ngạc. Sáu mươi mốt tàu thuộc phần vỏ bên ngoài của hạm đội đã bị thiệt hại nghiêm trọng. Đây đúng là mục đích của White Scars, không cố gắng tiêu diệt kẻ thù trừ khi có cơ hội, mà là tung ra hàng nghìn nhát chém để những con tàu đang nhắm vào bên trong Hệ mặt trời chảy máu và mất dần khả năng chiến đấu. Tàu hải tặc và những tên lang thang tách ra từ hạm đội lúc trước đã làm tiêu hao phần lớn sức mạnh không gian của White Scars, nhưng như vậy vẫn chưa đủ. Những con tàu màu trắng xám đã không cắn câu, mà chỉ lượn đi để tập hợp lực lượng và quay trở lại nhằm vào mục tiêu là hạm đội khổng lồ đang di chuyển của Abaddon với một tần suất tấn công mãnh liệt hơn. Điều đó đòi hỏi tầm nhìn và khả năng kiểm soát mà ngay cả những chỉ huy void comander tốt nhất của Quân đoàn cũng phải vật lộn hết sức mình mới có thể thực hiện được. Lực lượng trong tay Abaddon là không đủ để lờ đi mối nguy hiểm này, họ sẽ bị rút cạn sức mạnh trước khi chạm tới được mục tiêu thực sự của mình. Vì vậy, họ sẽ phải kết thúc vũ điệu của bầy chim ưng ngay tại đây.

Hạm đội không được phép dừng lại. Nếu đi chệch khỏi con đường ban đầu, họ sẽ mất đi toàn bộ lợi thế đã phải mua bằng máu và ma thuật đã giúp những con tàu xuất hiện tại vị trí xa nhất từ trước đến nay bên trong không gian hình cầu của Hệ Sol. Vì vậy, họ buộc phải chiến đấu trong lúc tiếp tục tiến về phía trước như một con thú khổng lồ đơn độc bị tra tấn bởi những vết cắn của đàn chim ưng liên tục lượn quanh chắn ngang đường đi của nó.

‘Vấn đề nằm ở sự thẳng thắn của người Cthonian – tính cách mà anh luôn rất coi trọng – đó là nó hoạt động quá hiệu quả.’ Abaddon lộ rõ vẻ khó chịu trên khuôn mặt. Jubal Khan vừa cười vừa đặt tay lên vai anh như thể họ đã biết nhau hàng chục năm. ‘Anh đã quá quen với việc sử dụng nó và quên rằng đó không phải là cách duy nhất để giết người.’

Trong số các con tàu Sons of Horus nằm ở các lớp bên ngoài hạm đội có một con tàu đáng chú ý. Tên của nó là Aeolus, một tàu thuộc lớp heavy cruiser, được chế tạo ở sao Hỏa và có phần thân hình lưỡi giáo đặc trưng. Nhiều phát đạn ngư lôi đã vượt qua các tấm chắn và xuyên thủng hai bên sườn được bọc thép của nó. Lửa lan qua các khoang và tràn ngập phía mạn phải con tàu. Những luồng không khí lóe sáng phun ra bên ngoài xuyên qua lớp void shield. Lúc này, Aeolus bắt đầu đi chệch hướng khi động cơ của nó chập chờn chớp tắt. Các chị em trong hạm đội vẫn tiếp tục hành quân, không hề chậm lại trong lúc *Aeolus *chật vật cố gắng lấy lại phương hướng và tốc độ. Bầy chim ưng lượn vòng quanh chiếc Aeolus đã bị thương và đang dần bị tách khỏi các anh chị em của nó. Động cơ của nó cố gắng bùng cháy lần nữa, tỏa ra ánh sáng tuyệt vọng rực rỡ như một ngôi sao, Aeolusnhư một sinh vật đáng thương bị tụt lại phía sau phạm vi an toàn của bầy, cố gắng chiến đấu chống kết cục không thể tránh khỏi khi những kẻ săn mồi đang nhìn chằm chằm, siết chặt vòng vây và dần tiến lại gần.

Nhưng con tàu vẫn chưa chết. Nó thực sự đang chảy máu, nhưng sự yếu ớt mà nó đang phơi bày là giả tạo.

Những con tàu White Scars bắt đầu lượn vào mục tiêu để kết liễu nó. Chúng đã tập trung lại với nhau và xuất hiện ở giữa đội hình, như một bóng ma hiện ra từ bóng đêm là một khối kim khí to lớn vĩ đại, động cơ của nó sáng lên vẽ thành một hình lưỡi liềm nổi bật trên bầu trời đầy sao.

‘Lance of Heaven … ‘ Abaddon thở phào khi nhìn thấy chiếc battle barge trượt vào tầm mắt. Anh nghĩ về những người anh em trong Quân đoàn mà anh đã hy sinh để nhìn thấy cảnh tượng này, những binh lính bị giết trên chiếc Aeolus khi lửa bùng lên qua sàn tàu và những vụ nổ xé nát lớp da kim loại của nó. Abaddon biết anh đã giết những chiến binh đó. Con dao nằm trong tay kẻ thù nhưng họ chết là do anh, để anh có thể đứng đây, trong giây phút này và nhìn đối thủ của mình từ từ băng qua đại dương đen kịt đến đối mặt với anh. Có những vết thương không thể giả vờ cùng những cái giá bắt buộc phải trả, nhưng quan trọng là cơ hội duy nhất đã xuất hiện.

Chiếc Lance of Heaven vẫn chưa nổ súng, nó đang tiến gần đến mục tiêu. Aeolus cố giẫy giụa nhưng động cơ đã tắt ngấm khiến nó xoay tròn như một mũi tên bắn ra từ một cây cung bị gãy vụn.

Lance of Heaven khai hỏa. Những chùm tia plasma chiếu xuyên qua màn đêm. Lớp void shield cuối cùng của Aeolus bị thổi bay. Con tàu tội nghiệp lật nhào, hất tung tất cả mọi thứ bên trong. Các vết phồng rộp do kim loại nóng chảy hình thành và vỡ ra trên thân tàu. Lance of Heaven tiếp tục áp sát. Những khẩu đội sung tầm ngắn gầm lên đẩy Aeolus xoay vòng nhanh hơn, các mảnh vụn bắn ra từ các cạnh của nó.

Theo dõi cuộc tấn công, Abaddon gần như có thể cảm nhận sự khao khát giết chóc đang dẫn dắt bọn White Scars tiếp tục tấn công.

Lance of Heaven lượn gần lại, thân tàu ngoặt gấp để hướng tất cả khẩu đội súng bên mạn tàu rộng lớn nhắm vào động cơ của Aeolus: nhát chém kết liễu cuối cùng trước khi nó biến mất trở lại vào khoảng không tăm tối. Nhưng đòn tấn công ấy đã đi quá xa.

‘Tấn công,’ Abaddon ra lệnh.

Battle Barge War Oath đâm thẳng tới phía trước. Các con tàu của hạm đội đang che chắn cho nó tách ra hai bên. Sức mạnh đã được tích lũy trong các lò phản ứng của con tàu, những chuyên gia lão luyện của New Mechanicum đã giữ cân bằng cơn thịnh nộ từ phản ứng plasma cho đến khi tiếng rít xé tai vang lên. Được giải phóng, sức mạnh đó gầm lên từ động cơ của con tàu đẩy nó lao nó về phía chiếc Lance of Heaven như một tiếng sét giáng xuống giữa bầu trời đêm. Sức nóng và bức xạ đã giết chết hàng trăm người trên boong động cơ. Ba chiếc tàu hộ tống bay theo chiếc War Oath, lao vút lên mở rộng đội hình để vây bắt con mồi.

Đã quá muộn, dù con tàu White Scars dừng cuộc tấn công ngay lập tức và quay đầu muốn lặn trở lại vào đêm đen. Nhưng War Oath đã ở đủ gần. Trong khoang dịch chuyển, không khí tràn ngập xung tĩnh điện nổ tanh tách cùng những quả cầu ánh sáng.

‘Vì Warmaster của chúng ta,’ Abaddon nói vào vox và cùng những chiến binh đang tập trung xung quanh anh biến mất trong một tia sáng nhấp nháy.

Chúa tể chiến tranh

Battle Barge Lance of Heaven, Vịnh Supra – Solar

Từ một cơn lốc màu xanh lục, những chiến binh mặc giáp đen xuất hiện trên các lối đi tại khu vực chỉ huy của chiếc Lance of Heaven. Abaddon cảm thấy cơn co giật nhẹ từ tay chân khi sức ép quen thuộc từ không gian thực xuất hiện trở lại. Ánh sáng dịch chuyển biến mất trong một tiếng hú và chào đón họ là tiếng súng. Những làn sóng Etheric nổ vang xé toạc không khí rồi lấp đầy chúng bằng tiếng thét chói tai sợ hãi của con người. Đội quân Sons of Horus nổ súng bắn trả, thổi bay các tháp pháo và bunker phòng thủ trong lúc tiến lên. Không chút do dự trong các chuyển động của họ, không chút nghi ngờ. Các chiến binh đọc tình huống xung quanh, vừa di chuyển vừa giết chóc trước khi những binh lính con người đối mặt với họ có đủ thời gian bắn ra nhiều hơn một phát súng.

‘Tiến lên’, Abaddon ra lệnh, bóp cò và di chuyển cùng những người anh em của mình.

Các toán đột kích lắp thuốc nổ vào các vách ngăn bunker khóa kín rồi xoay người trú ẩn sang một bên khi ánh sáng lóe lên cùng mảnh kim loại và khói bao trùm. Những người đàn ông và phụ nữ đang phòng thủ con tàu đã được đào tạo và rất có kỷ luật, họ được tuyển dụng và lựa chọn ràng buộc để phục vụ Quân đoàn White Scars với danh dự cùng kỹ năng sử dụng vũ khí của mình. Nhưng họ vẫn chỉ là con người. Những cơ thể phát nổ do áp lực bên trong bộ quần áo khi chúng bị va vào tường dưới sức ép của vụ nổ. Răng nanh của chainsword cắt qua thịt và xương. Máu làm sàn tàu trở nên trơn trượt. Các loạt đạn lấp đầy những hành lang bằng mảnh vỡ và thi thể bị nghiền nát.

Trong vòng ba phút, lực lượng tấn công đã xuyên thủng hàng phòng thủ xung quanh các vị trí quan trọng trên khu vực chỉ huy và khoang động cơ của chiếcLance of Heaven. Abaddon tiến đến cửa chính dẫn vào cầu tàu khi Ralkor – master of signal của anh – đang cố gắng mở khóa machine spirit tại đây một cách bạo lực. Abaddon lắc đầu và ra hiệu bằng một ngón tay trên power fist của mình. Hai đội reaver chạy lên trước, kéo thuốc nổ từ ba lô và thắt lưng ra rồi nhanh chóng cố định chúng vào vị trí trong lúc anh bước thêm 1 bước nữa. Abaddon chợt cảm thấy tâm trí trở nên lạnh lẽo, cuộc đột kích diễn ra quá nhanh chóng làm anh nhận ra có điều gì đó bất thường. Mức độ kháng cự là thấp, quá thấp đối với một con tàu tầm cỡ soái hạm như thế này.

Cánh cửa bị thổi bay. Sóng Melta đục lỗ trên các tấm chắn một giây trước khi thuốc nổ xé rách lớp kim loại đã bị cong vênh. Một đội Terminator tiến vào đầu tiên, tông xuyên qua các mảnh vỡ đang nguội dần, nổ súng dọn đường. Hàng nghìn người máy servitor và người hầu serf bị biến thành thịt vụn dưới làn mưa đạn. Abaddon di chuyển theo làn sóng tấn công, màn hình trong mũ cho thấy một loạt chữ rune hiển thị kẻ địch biến mất khi đạn bolt và chùm tia volkite chạm vào mục tiêu của chúng. Anh tiến đến đến trung tâm cây cầu khi tất cả dần bị sự im lặng bao trùm.

‘Hắn ta đâu?’ Layak hỏi, theo sau Abaddon, bóng và ánh sáng ma quái lượn lờ xoắn ốc quanh người hắn. Những tên blade slaves đang bảo vệ xung quanh hắn, gươm sẵn sàng trên tay, cơ thể chúng sưng phồng biến dạng, đốm lửa và tro tàn rơi ra theo mỗi bước đi. ‘Không tìm thấy bất kỳ tên nào trong chúng sao?’

Abaddon suy nghĩ, tâm trí anh xoay chuyển giữa các khả năng. Cầu tàu quá im lặng, chỉ có một số serf và servitor vừa đủ để chỉ để giữ cho chiếc Lance of Heaven hoạt động … Không: đúng hơn là giữ cho nó đi theo quỹ đạo mà War Oath có thể đánh chặn, giữ nó treo lơ lửng trước mặt họ như một miếng mồi nhử trên cái bẫy…

‘Coi chừng!’ Ralkor hét lên. Abaddon vừa kịp xoay người lại và nhìn thấy một vệt sáng xoay tròn bên ngoài các khung cửa quan sát đang hướng thẳng về phía mình. Mặt kính chịu lực nổ tung trong một làn sóng lửa khi những chiếc tàu đột kích assault rams đâm sầm vào cầu tàu Lance of Heaven. Lực lượng tấn công gồm hai chiếc, những hình khối giống cái đục được bọc thép, gắn động cơ, đủ chỗ cho năm chiến binh trong mỗi nhánh thân tàu và trang bị vũ khí melta đủ mạnh để chọc thủng vỏ lớp tàu chiến hạm. Chỉ với một phát bắn trúng đích vào cầu tàu không được bảo vệ, những vũ khí đó đã biến một nửa khu vực thành xỉ kim loại phát sáng.

Làn sóng dữ dội từ vụ nổ quất vào Abaddon khiến anh choáng váng. Những mảnh vỡ và đốm kim loại nóng chảy bật lại từ tấm giáp ngực của anh. Tybar và đội của anh ta đã hứng trọn sức mạnh của đợt tấn công và những gì còn lại chỉ là lửa và tro tàn. Hai chiếc assault rams xé toạc cây cầu, ghim sâu vào sàn tàu. Các tấm lót kim loại bị bóc ra, quăng quật vào vào không gian. Cửa sập phía trước những con tàu tấn công bật mở. Các chiến binh mặc đồ giáp trắng nhảy lên boong tàu đang nhấp nháy ánh đèn. Đạn bolter và tia plasma bắn ra ào ạt đốn hạ hàng loạt lính Sons of Horus. Tiếng súng lại bùng lên. Layak đang đứng cùng bọn blade slaves của hắn giữa đống đổ nát, ngọn lửa u ám và bóng tối nhợt nhạt bao quanh chúng nghiền nát những viên đạn cùng mảnh vỡ xung quanh thành tro bụi. Lúc này, một chiếc assault rams khác đâm xuyên qua cái lỗ do hai chiếc đầu tiên để lại.

Abaddon đứng dậy, bộ giáp terminator phủ đầy lổ thủng các hố nhỏ. Lớp sơn màu đen đặc trưng của lực lượng Justaerin đã bị đốt cháy, thay vào đó là màu đỏ của ceramite đang nguội dần hòa cùng màu đen của bụi bặm. Urskar và Gedephron đứng cạnh anh. Không khí rít lên băng qua họ lao vào khoảng không ngoài xa. Bên trong mũ giáp của Abaddon, tiếng ồn của trận chiến truyền đến anh ta qua một cơn rung chuyển từ phía dưới đôi chân. Đó là lúc anh nhìn thấy kẻ thù của mình, một chiến binh chạy như bay giữa những thân hình mặc áo giáp trắng đang lao qua boong tàu: mũ có mào, những ký hiệu các cuộc săn đặc trưng của Chogorian chạy dọc các tấm áo giáp, thanh guandao xoay tròn trong tay hắn như một ánh chớp lóe lên, như tiếng cười khùng khục vàng lên giữa bầu trời mưa rơi.

Đó là Jubal Khan, chiến binh đã chiến đấu trên khắp các vì sao và để lại danh tiếng mà ít ai có thể hy vọng chạm tới được. Jubal cũng chính là người mà Abaddon đã gặp trên ngọn tháp của Nissek, ngay trước khi bị đám Arch-Drake phản công. Chúa tể của tia chớp mùa hè, tử thần biết cười. Người chiến binh huyền thoại ấy đang ở đây, một chúa tể chiến tranh đã lựa chọn việc ở lại để chiến đấu gần như một mình trong địa ngục u ám này. Chiến đấu và chết ở đây.

Abaddon bắt đầu chạy đến đối mặt với kẻ thù của mình.

‘Sycar,’ anh gầm gừ khi sải bước đi đầu tiên. ‘Phá hủy máy phát điện.’

Anh nghe thấy tiếng súng nổ vang qua vox khi trung úy của anh trả lời.

‘Sẽ không sạch đẹp chút nào đâu, người anh em.’

‘Làm đi.’

‘Với niềm vui và sự phục tùng của tôi’ Sycar đáp cùng tiếng cười đủ để Abaddon có thể nghe được.

Anh đã đi được năm bước trên boong tàu. Jubal đã nhìn thấy anh. Người chiến binh White Scar xoay lưỡi đao chém xéo ra người và một người con trái khác của Horus ngã xuống, mũ đội đầu bị chẻ đôi, máu đang bốc hơi khỏi trường sức mạnh trên thanh guandao.

‘Chuẩn bị cho trạng thái mất trọng lực!’ Urskar hét lên qua vox, bắn một luồng đạn hạng nặng vào những tên White Scars còn lại đang nhảy ra khỏi mấy chiếc assault rams.

Một cơn chấn động dâng lên, xuyên qua qua boong tàu. Số đèn ít ỏi còn lại tắt ngúm. Abaddon cảm thấy bụng mình co thắt khi trọng lực biến mất. Nam châm dưới đế giày của anh khóa chặt vào boong ngay sau đó. Một chiếc tàu đột kích méo méo vẫn đang di chuyển dưới tác động của quán tính từ vụ va chạm từ từ xoay tròn trượt khỏi boong tàu. Các mảnh vỡ dâng ngược lên trên. Một nửa binh lính White Scars đang trôi nổi lơ lửng. Từng loạt bolter găm vào đống thân hình to lớn đẩy chúng nhào lộn trong bầu không khí vừa biến mất. Phần còn lại đã kịp cố định vào boong tàu đúng lúc. Jubal tiếp tục tiến tới, những sải chân của anh ta chậm lại nhưng tốc độ của anh ấy vẫn thật đáng kinh ngạc. Abaddon chồm người lên đón đầu kẻ thù. Đạn bolter bay ngang qua anh. Chiến tranh đang gào hét bằng thứ ngôn ngữ của người chết tràn ngập tai anh. Thanh kiếm nằm chặt trong tay, được bao quanh bởi tia chớp, áo giáp máu và cơ bắp của Abaddon hòa vào làm một.

Guandao của Jubal vụt ra, băng qua khoảng không giữa họ. Nó nhanh đến mức trông như một tia sáng lóe lên từ một tấm gương. Abaddon đưa cao thanh kiếm để đỡ đòn.

Nhưng hai món vũ khí chưa không bao giờ chạm vào nhau. Jubal kéo mạnh cây trường đao như thể khối kim loại kia chỉ là một sợi dây thừng, rồi chém mạnh nó ra lần nữa. Cạnh đao bén ngót chạm vào tay phải của Abaddon, trường sức mạnh cắt sâu qua lớp giáp. Một cơn đau bùng lên trên cánh tay, Abaddon xoay thanh kiếm của mình gạt cây guandao ra, và đánh trả, chuyển từ tư thế đỡ đòn thành một nhát chém phí trên đầu. Jubal giật lùi đi. Sàn tàu rung lên khi các khóa từ tính trong giáp chân của họ ngắt đi rồi được kích hoạt trở lại.

Abaddon tấn công dồn dập, dồn lực của mỗi cú đánh vào lần ra đòn tiếp theo để sức mạnh của thanh kiếm tăng dần lên như một cơn bão biển sắp va vào đất liền. Jubal đáp trả bằng cách lấy thân mình làm trục để xoay người và làm chệch hướng các đòn tấn công. Họ đang chiến đấu trên phần boong tàu phía trước xác mấy chiếc assault rams. Đao và kiếm va vào nhau nảy lửa. Abaddon không giảm tốc độ hay lùi lại. Trận chiến dần trở nên im lặng khi luồng không khí cuối cùng bị hút khỏi cây cầu. Âm thanh từ trái tim tràn ngập thế giới của Abaddon, lúc dâng trào như sóng vỗ, lúc như lời thì thầm của trận chiến.

Jubal phát động đợt tấn công tiếp theo với tốc độ cực nhanh. Abaddon nhìn thấy một điểm sơ hở và đâm mạnh. Nhưng Jubal đã kẹp chân mình vào boong tàu giữa lúc đang di chuyển rồi vung đao chém ngược lại. Đòn tấn công ấy là động tác mà bất kỳ bậc thầy sử dụng vũ khí nào có thể gọi tên được, nhưng nó đã đánh trúng tay cầm kiếm của Abaddon, ngay phía trên khuỷu tay. Rìa vũ khí sắc như dao cạo và trường năng lượng cắt xuyên qua lớp giáp mỏng manh bao quanh các khớp. Cơn đau cháy rực và một chuỗi ngọc trai màu đỏ tươi sủi bọt vào chân không. Nó đâm thẳng vào tâm trí Abaddon và làm mờ đi khoảng khắc Jubal không phòng thủ ngay trước khi anh kịp nhận ra. Tâm trí cùng cơ thể Abaddon cố gắng gạt nỗi đau sang một bên và vung kiếm. Đó là một đòn tấn công cực kỳ nguy hiểm buộc Jubal phải đối mặt. Lực va chạm làm cơ thể Abaddon nảy lên. Jubal đã ngắt khóa từ trường đang giữ anh ta trên boong tàu và lợi dụng tác động của đòn đánh để lộn người thành một vòng cung phía trên đầu Abaddon.

Jubal đáp xuống, đế giày giữ anh đứng vững trên sàn tàu, bằng một động tác uyển chuyển nhưng đầy uy lực, cây trường đao phóng ra. Thân đao dài trượt trong lòng bàn tay phải của anh, mũi đao nhắm vào Abaddon như một tiếng sét giữa trời quang.

Thật kinh khủng. Từ quá trình lợi dụng kế hoạch giết thủ lĩnh Falcon của Abaddon để đưa kẻ thù lọt bẫy phục kích đến vũ điệu của máu và các nhát chém đang diễn ra. Tất cả đã đẩy cuộc chiến cùng sự giết chóc ở nơi đây đạt một cấp độ khác, vượt xa khỏi nhận thức thông thường, kể cả đối với những sinh vật được tạo ra mạnh mẽ hơn cả loài người. Tiếp đến, Abaddon sẽ lại tấn công và Jubal tiếp tục phản công. Từng chút một, những nhát chém đó sẽ làm chảy máu Abaddon, làm chậm anh ta và đẩy anh ta rơi vào nhiều sai lầm hơn. Mọi việc sẽ lặp đi lặp lại theo mô hình này, hết lần này đến lần khác, không bao giờ ngừng lại, chỉ chuyển sang giai đoạn tiếp theo đã được định sẵn, giống như gió và mưa luôn bị tia chớp rạch đôi giữa cơn bão.

Nhưng lần này thì không. Mọi việc sẽ không diễn ra như thế. Abaddon hiểu rõ Jubal, anh đã quen người chiến binh này từ trước và có thời gian để nghiên cứu lối đánh của anh ta, đó là yếu tố mang tính mấu chốt trong thời điểm sống còn này.

Abaddon giơ kiếm lên để đón đầu thanh guandao đang lao về phía mình. Đối với một con người, động tác ấy là quá nhanh, quá nhanh để có thể phản ứng kịp nhưng Jubal thì khác, anh đã dự đoán trước nó, đã luôn chờ đợi nó. Thanh trường đao lần nữa đổi hướng giữa không trung, nhắm vào cạnh sườn đối thủ. Trường năng lượng trên hai thứ vũ khí va vào nhau tạo thành từng chùm ánh sáng chói mắt. Chân của Jubal dán chặt vào sàn tàu khi anh chuyển hướng đòn tấn công vào sâu bên trong khu vực phòng thủ của Abaddon.

Ngay lúc này, Abaddon đâm mạnh thanh kiếm về phía trước. Tất cả sức lực cùng tất cả kỹ năng của anh đều tập trung vào đòn đánh này. Nó va chạm vào thanh guandao. Những tia lửa văng tung tóe. Jubal bối rối lùi lại, nhịp tấn công của anh bị bẻ gãy khi lực tác động truyền qua vũ khí đập vào cánh tay. Abaddon kích hoạt trường năng lượng trên power fists của mình và vung nó về phía trước, lòng bàn tay mở ra. Những ngón tay bao quanh bởi năng lượng sáng trắng màu sấm sét chụp trúng cây guandao và trong một ánh chớp lóe lên, chúng siết chặt lại. Jubal cố xoay người lùi lại nhưng Abaddon đã đọc trước chuyển động ấy. Thanh kiếm của anh đâm trúng bụng, xoáy sâu vào phần ruột Jubal và cắt lên trên, xẻ qua áo giáp, thịt và xương.

Máu tuôn ra không trung, lấp lánh, bốc hơi khi chạm vào trường năng lượng trên thanh kiếm. Cánh tay của Jubal vẫn đang vung lên, nắm chặt vũ khí đã gãy của mình. Abaddon bước lùi lại, kéo mạnh phần chuôi và đá cái xác ra khỏi lưỡi kiếm của mình. Và Chúa tể của Tia chớp mùa hè ngã nhào ra phía sau, tứ chi đột nhiên chùng xuống, buông thõng, máu tuôn ra thành những quả cầu vào khu vực không khí đã hoàn toàn biến mất.

Abaddon đứng tại chỗ trong một giây, lắng nghe tiếng thở nặng nề của chính mình bên trong chiếc mũ, mắt lặng nhìn người chiến binh mà anh vừa giết chết.

Và rồi, âm thanh nổi lên trên khắp boong tàu, từng đợt chấn động truyền xuyên qua áo giáp của anh.

Abaddon bừng tỉnh, nhận thức của anh quay trở lại, sắc bén và sáng tỏ. Ánh sáng đang hội tụ lại ở phía trước một trong những con tàu assault rams đang ghim chặt vào sàn tàu bên dưới. Abaddon cảm thấy căng thẳng, anh tập trung quan sát khu vực trước mặt trong giây lát, đúng hơn là anh đang nhìn chùm năng lượng dần lấp đầy khoảng không gian trống rỗng giữa đám lính White Scars còn sống sót và những loạt đạn bolter của Sons of Horus. Các xác chết xoay tròn trong không khí. Những vụ nổ chập chờn sáng lên từ vùng vũ trụ bên ngoài con tàu. Và ánh sáng của chùm tia nhiệt hội tụ ập tới, xẻ dọc sàn tàu dưới chân Abaddon khi chiếc assault rams khai hỏa toàn bộ vũ khí magna-melta của nó. Trong một khoảng khắc ngắn ngủi vô cùng của thời gian, anh có cảm giác sàn tàu đã hứng trọn và chứa đựng tất cả nguồn năng lượng đó bên trong nó nhưng rồi mọi thứ chuyển màu từ đỏ sang trắng. Và rồi khoảnh khắc ấy vụt trôi qua nhanh.

Nhiệt và kim loại bị nấu chảy bùng nổ ra bên ngoài. Chùm tia melta cắt đôi sàn tàu hướng thẳng về phía Abaddon. Anh cảm thấy vật chất dưới chân bắt đầu vỡ vụn như một tấm giấy da bị thiêu rụi trong lò lửa. Abaddon cố di chuyển, nhưng thời gian trôi thật chậm như những hạt cát cuối cùng trong chiếc đồng hồ đang rơi xuống.

Chùm tia nóng rực đập vào một bức tường vô hình. Băng giá bị ép nổ tung thành hơi nước trong khi bức tường băng lan rộng khắp sàn tàu rách nát. Âm thanh hỗn loạn vang lên bên tai Abaddon, tiếng gào khóc réo rắt và van xin. Bóng tối bao phủ quanh người và anh có thể ngửi thấy mùi trầm hương hòa cùng mùi tàn lửa.

Zardu Layak bước đến cạnh Abaddon, bàn tay giơ lên cao. Một thiết bị bí ẩn nào đó vừa bị thiêu rụi trong lòng bàn tay hắn.

  • Lùi lại … + giọng nói của Layak vang lên trong tâm trí của Abaddon. Hắn cố trụ lại thêm một giây, bóng tối phía trước khép lại thành hình bán cầu che chắn bọn họ khỏi sức mạnh của vụ nổ. Layak khép tay lại. Tấm khiên bóng tối quấn lấy chùm tia melta và biến mất. Sự tĩnh lặng lần thứ hai lấp đầy không gian. Sau đó Layak mở tay ra và ngọn lửa xuất hiện trở lại, như ánh sáng bị mắc kẹt trong một chiếc đèn bão. Chiếc assault rams nổ tung kéo theo một nửa sàn tàu biến mất trong một tia sáng trắng chói lòa.

Một lúc sau, tiếng súng ngừng hẳn.

Abaddon bước về phía Layak. Máu sủi bọt từ dưới mặt nạ của tên linh mục, sẫm màu và đặc quánh. Tiếng nói nổi lên trên kênh vox, nhưng Abaddon lờ đi. Anh nhìn vào tên linh mục mặc giáp màu xám của Quân đoàn Word Bearers trước mặt, kết nối kênh vox của mình theo một liên kết trực tiếp đến Layak.

‘Cứu một mạng sống sẽ tạo ra một mối liên kết ràng buộc, người con đầu tiên của Quân đoàn Sons of Horus’, Layak nói trong khi ngẩng lên nhìn Abaddon, những cặp mắt trên chiếc mặt nạ có sừng và đầy răng nanh của hắn ta sáng lên. ‘Hãy luôn nhớ lấy điều đó.’

CHƯƠNG 11

(phần 1)

Những thiên thần đen trong tim

Tàu chở hàng Antius , Vịnh Jovian

‘Phát hiện tàu lạ. Đang tính toán khoảng cách. ‘

Một tech – priest dạng drone kêu vo ve trên đường bay qua cầu tàu.

Nhân viên trực đài quan sát, người đang ngủ gà gật, giật mình đứng thẳng dậy, chớp mắt liên hồi. Vek lúc này đang ngồi trong một chiếc ghế hình trứng bỏ trống nằm trước bảng điều khiển, cố gắng xua đi sự mệt mỏi và căng thẳng đang quện vào nhau.

‘Gì thế?’ Vek hỏi.

‘Tôi không chắc,’ người linh mục công nghệ nói. Cô ấy bay lên từ khoang động cơ và tự kết nối thiết bị lái cùng hệ thống cảm biến lần đầu tiên sau khi họ ra khỏi quỹ đạo của Uranus. Điều đó giúp Vek yên tâm được một chút. Vị tech – priest, người mà anh nghĩ được gọi là Chi-32-Beta, hoàn toàn lạnh lùng và không có chút cảm xúc nào, bù lại cô ấy dường như không cần ngủ, cũng không dễ hoảng sợ như phi hành đoàn con người trên tàu. ‘Đó là một tàu không gian void-craft dạng nhỏ, tốc độ nhanh, và tín hiệu quét phản hồi từ nó rất mờ nhạt’, Chi-32-Beta tiếp tục, ‘Nếu mở rộng phân tích để suy đoán các khả năng, tôi có cơ sở đủ vững chắc để tin rằng con tàu đó được trang bị hệ thống chống Auspex.’

‘Nó đang ẩn nấp sao?’ Vek hỏi.

‘Nhận định đó là không chính xác. Sự thực là con tàu chúng ta đang nói tới không ẩn nấp mà đúng hơn là chúng ta không có đủ khả năng để nhìn thấy hay theo dõi nói. ‘

‘Tàu quân sự?’

‘Gần như chắc chắn.’

‘Nó đã nhìn thấy chúng ta chưa? Nó có đang đến gần hơn không? ‘

‘Đối với câu hỏi đầu tiên – tôi sẽ giả thuyết rằng nếu các hệ thống máy móc thiêng liêng của nó đủ mạnh để vượt qua hệ thống quét Auspex của chúng ta, thì cần thật nhiều phước lành để nó không phát hiện ra chúng ta dù chỉ là trong một khoảng khắc ngắn ngủi nào đó.’ Vị linh mục công nghệ tạm dừng. Vek nhìn thấy những chiếc bánh răng đang quay bên dưới đôi môi được chạm khắc kỹ lưỡng trên chiếc mặt nạ bằng thép sáng bóng của cô. ‘Còn việc nó có đang tiếp cận chúng ta hay chỉ cắt ngang qua đường bay hoặc đã đi xa dần, tôi không có đủ dữ liệu.’

Vek cắn môi. Anh nghĩ đến việc gọi Koln, nhưng phó thuyền trưởng vừa được thăng cấp của chiếc Antius đã vắng mặt ngày càng lâu và xa lánh tất cả mọi người trong nhiều ngày qua kể từ khi họ tháo chạy khỏi Uranus. Khi có mặt, cô ấy nói chuyện như thể không đủ tỉnh táo hoặc không nhận thức đầy đủ về thực tại đang diễn ra, còn khi tập trung thì cô ấy sôi sục với cơn thịnh nộ gần như không kiềm chế được. Rồi người ta ngày càng ít thấy Koln trên cầu tàu, còn Vek thì rất vui mừng khi không cần phải biết nơi mà cô ấy sắp xuất hiện. Nhưng giờ đây, Vek phải nhìn nhận sự thật rằng anh không phải là một thuyền trưởng tàu không gian …

‘Đi tìm phó chỉ huy Koln đến đây,’ anh gọi một trong những nhân viên cấp thấp trên boong, người trông gần như thậm chí không đủ tuổi để giữ cấp bậc ấy. ‘Đưa cô ta trở lại cầu tàu ngay lập tức.’

Người nhân viên gật đầu và rời đi.

Vek nhắm mắt và xoa chúng bằng lòng bàn tay. Cơn đau đầu đang tăng lên trong khoảng không sau đôi mắt anh qua hàng giờ liền. Nỗi đau ngày càng trở nên rõ nét hơn khi adrenaline của những ngày đầu tiên trong chuyến bay chạy trốn của họ dần cạn kiệt và giờ đây họ đang tiến xa hơn về phía Jupiter cùng phần lõi bên trong của hệ sao. Tuy nhiên, tất cả mọi người trên tàu đều cảm thấy giống nhau. Vek đã nghe thấy cả phi hành đoàn lẩm bẩm trò chuyện với nhau về những giấc mơ khi quay trở lại ca trực, hầu hết họ đều xoay xở để có thể ngủ được một chút.

Mọi thứ đang bị bào mòn dần. Đã có những sự cố: những cuộc cãi vã lớn tiếng giữa các nhân viên cấp trên và cấp dưới. Đây là một con tàu dân sự, một phi cơ vận tải hàng hóa tầm ngắn. Phi hành đoàn của nó không phải là quân nhân nên những thói quen về kỷ luật cũng như quyền lực của người chỉ huy không thể tồn tại trước hoàn cảnh thực tế mới mẻ đang diễn ra. Và còn những người tị nạn trong các khoang hàng … Vek đã đi xuống để gặp họ hàng ngày tính đến hôm nay. Lần cuối cùng anh bước vào khoang hàng, họ chen chúc nhau nhào về phía cửa ra mà không phải về phía anh như mọi khi và sự tuyệt vọng đã lấp đầy những đôi mắt vô hồn ấy.

Những người tị nạn … Đó không phải là điều mà tất cả họ đã trở thành ngay lúc này sao?

‘Cường độ tín hiệu thay đổi!’ Chi-32-Beta báo cáo. ‘Xuất hiện tín hiệu thứ cấp tách ra từ tín hiệu chính ban đầu. Tiến hành mô phỏng đồ thị vị trí và hướng vectơ. ‘

‘Chuyện gì đang xảy ra?’ Vek hỏi.

‘Đợt phản hồi tín hiệu quét lần thứ hai cho thấy có một sự chia tách từ con tàu ban đầu. Vật thể vừa tách ra có kích thước nhỏ hơn và không cản trở các cảm biến của chúng ta. Nói một cách dễ hiểu hơn, con tàu mà chúng ta phát hiện trước đó vừa phóng ra một tàu con thoi cỡ shuttle hoặc tàu không gian cỡ nhỏ. Nó có thể được theo dõi bằng hệ thống Auspex. Tôi đang sử dụng các tín hiệu thu được từ nó để ngoại suy dữ liệu cho con tàu đầu tiên. ‘ tech – priest im lặng trong giây tiếp theo. Vek nghe thấy tiếng rít kim loại từ bên trong chiếc mặt nạ của cô khiến anh liên tưởng đến một tiếng hít thở mạnh. ‘Đề nghị chuyển hướng khẩn cấp và phong tỏa tàu từ bên trong ngay lập tức!’

Phi hành đoàn trên cầu tàu bị đánh thức hoàn toàn từ trạng thái lơ mơ ngủ sang hoảng loạn cực độ. Đèn đỏ khắp nơi bắt đầu bật sáng và nhấp nháy.

Vek đang định đi về phía tech – priest, nhưng cô ấy đã gọi lớn.

‘Họ đang ở rất gần – họ chắc chắn đã lặng lẽ tiến sát chúng ta hàng giờ liền và chiếc tàu nhỏ hơn vừa phóng ra đang tiếp cận trực diện với tốc độ cực nhanh.’

‘Đó là gì?’

‘Tôi có thể suy đoán rằng đó là một con tàu thuộc lớp tấn công.’ tech – priest xoay đầu trên vai cô ấy để nhìn thẳng vào Vek. Đôi mắt cô là hai vòng tròn bằng thép sáng bóng như pha lê. ‘Mục đích của họ là đổ bộ lên tàu của chúng ta.’

‘Còn bao lâu?’ Vek hỏi và như thể đáp lại anh là một giọng nói máy móc vang lên từ loa vox bên kia cầu tàu.

‘Chuyển hướng khẩn cấp! Va chạm trong mười giây tiếp theo! Chuyển hướng khẩn cấp! ‘

Vek kịp quay lại nhìn qua khung cửa quan sát và thấy một hình dạng trơn bóng đang lao về phía họ như một mũi tên rực lửa được bắn ra từ màn đêm sâu thẳm.

Những thiên thần đen trong tim

Tất cả những người đó đã chết, tất cả họ và Vek thậm chí không dừng lại một giây nào cả …

Hắn đã rút súng ra, đúng vậy, hắn đã chĩa súng vào cô, lúc đó cô đâu có sự lựa chọn nào khác?

Cô bị buộc phải làm vậy. Vek đã bỏ rơi thuyền trưởng của con tàu. Hắn ta đã giết cô ấy. Cô đâu có sự lựa chọn nào khác?

Không hề.

Và tất cả là vì những đứa con của hắn. Tất cả là để giữ cho hai đứa nhóc hỗn xược, hợm hĩnh, giàu có ấy sống sót.

Có bao nhiêu người đã chết?

Hắn đã giết họ. Đúng, Vek mới chính là người đã giết họ, chứ không phải cô. Cô ra lệnh cho tàu rời khỏi bến chỉ bởi vì hắn đã có thể bắn cô ngay lúc đó.

Cô đâu có sự lựa chọn nào khác?

Ngồi im lặng trong bóng tối, Zadia Koln, người từng giữ cấp phó còn hiện giờ là thuyền trưởng của tàu vận tải liên hành tinh Antius lắng nghe những suy nghĩ đang cuộn trào và gầm thét trong đầu. Hàng lang trước mắt cô tối om. Khẩu súng lục treo lơ lửng trên những ngón tay vẫn còn bốc khói, khóa nòng trượt mở ra hết cỡ lộ ra phần kim loại trống hoác lạnh tanh. Vỏ đạn bằng đồng thau tròn trịn rải rác trên khắp sàn nhà xung quanh. Ở phía xa, một nửa bị bóng tối che phủ, là những xác chết. Năm người hoặc có thể nhiều hơn. Koln không chắc. Trong giây phút ấy, cô chỉ thoáng nhìn thấy họ xuất hiện từ bên ngoài tầm mắt của mình.

Cô đâu có lựa chọn nào khác.

Koln đang đi bộ trên hàng lang. Rồi không biết từ đâu, họ đột ngột xuất hiện khi cô đang kiểm tra niêm phong trên cửa ngăn giữa các khoang, cô chỉ kịp rút súng và …

Koln ngước nhìn lên cánh cửa đóng kín ở phía bên kia hành lang. Cô đã xuống đây thông qua lối đó nhằm kiểm tra xem liệu tất cả các cánh cửa đều đã được khóa chặt một cách an toàn chưa…

Không, đó là một lời nói dối… Koln chỉ muốn đi khỏi khu vực cầu tàu, nơi đang bốc mùi nồng nặc của sự sợ hãi, còn Vek và vệ sĩ của hắn thì quan sát mọi thứ như thể họ không hề tin tưởng Koln.

Ý nghĩ về những điều đó khiến cơn thịnh nộ bùng lên, tràn qua khắp tâm trí cô, tham lam hút lấy mọi cảm xúc tiêu cực như một thứ nhiên liệu nuôi dưỡng cơn bão lửa ngày một lớn đang dần kéo đến quanh cô.

Koln không mong muốn hay yêu cầu điều này! Làm sao họ dám nghi ngờ cô cơ chứ. Cô là người đã phải ra lệnh, để giữ cho con tàu di chuyển qua khoảng không rộng lớn ngoài kia…

Cô đã dành phần lớn thời gian trong bốn thập kỷ tuổi thọ của mình trên con tàu này hoặc trên một trong những người chị em của nó. Các chuyến hàng chuyên chở quặng và hàng hóa thiết yếu đi tới rồi quay trở lại điểm xuất phát băng qua hàng chu kỳ của các mặt trăng vệ tinh quay vòng quay Uranus, lặp đi lặp lại, dễ dự đoán và thật chắc chắn. Một cuộc sống trần tục tầm thường đầy buồn chán, nhưng có một ngôi đền đã xuất hiện cùng với những cuộc tụ họp yên tĩnh trong sự im lặng của các bến tàu ngoài khơi Miranda. Koln đã rất vui mừng khi được mời tham gia và sau đó nhanh chóng bị thu hút thực sự. Sự căng thẳng khi phải giữ bí mật như một thứ chất gây nghiện làm tâm trí cô chìm đắm, lần đầu tiên trong đời, Koln đang làm một điều gì đó không được phép. Một điều gì đó thật đặc biệt. Thế nhưng, sau một thời gian, mọi chuyện vẫn diễn ra đều đều như thế, những người đàn ông và đàn bà trong chiếc mũ trùm đầu rách nát dùng những lời vô nghĩa để làm ám hiệu nhận diện nhau. Những vật làm tin và tiền xu cùng các cuộc gặp gỡ nửa giống các nghi thức tôn giáo nửa giống các cuộ nói chuyện phím có thể bắt gặp ở bất kỳ quán rượu nào trên bến tàu.

Mắt Koln dừng lại trên một trong những cái xác, bàn tay của nó vừa mở ra… Cử động nhỏ ấy làm cô tưởng chừng người đó vẫn còn sống. Họ đã hét lên điều gì đó trước khi cô bóp cò? Thức ăn, điều gì đó về thức ăn.

Cô đã làm gì thế này?

Không, không, không… Đây không phải là lỗi của cô.

Vek đã nghĩ gì trong đầu của hắn vậy? Gần một nghìn người tị nạn trên một con tàu chỉ mang đủ nhu yếu phẩm dành cho thủy thủ đoàn của nó. Vek lẽ ra phải biết… phải biết rằng họ không có gì trong tay cả. Cái đói đã bắt đầu cắn xé mọi thứ chỉ sau một vài ngày. Chẳng bao lâu nữa, nó sẽ khiến những người tị nạn trong các khoang chứa hàng di chuyển ra những nơi xa hơn các hành lang này. Như cái cách họ vừa chạy ra khỏi bóng tối trước khi cô …

Cô đã có …

Không, thực sự là họ không nên làm thế …

‘Đó không phải là lỗi của ngươi.’

Giọng nói vang lên làm Koln đóng băng tại chỗ. Đôi mắt cô dán chặt vào những người tị nạn đã chết. Cô nghe thấy tiếng trái tim mình đập thình thịch. Rồi cô bật cười, âm thanh vang vọng khắp nơi trước khi tắt lịm trong nước mắt. Đó là giọng nói của cô, tất nhiên rồi. Là giọng nói của chính cô. Những lời vừa rồi cô đã thốt ra từ trong suy nghĩ của mình trước khi bản thân kịp nhận ra.

‘Đó không phải là lỗi của ngươi, Zadia Koln.’ Cô lặng lẽ lặp lại lời nói của chính mình, cảm thấy từng từ bay vào không khí, lạnh lẽo và lấp lánh sương giá.

‘Đó không phải là lỗi của ngươi …’

Đúng lúc đó, Koln nghe thấy tiếng bước chân, chậm rãi và thong thả, hướng về phía cô băng qua khoảng hành lang tối tăm.

Cô cố gắng ngước nhìn lên.

Cô nhận ra mình không thể.

Thậm chí không thể di chuyển chút nào.

Nhịp đập của trái tim cô đã ngừng lại. Từng hơi thở lạnh cóng cô phả ra đọng lại trong không khí làm những hạt bụi lấp lánh treo lơ lửng trước mắt.

‘Lúc đó ngươi đã không có lựa chọn nào khác, và bây giờ cũng giống như vậy…’

Một hình dạng dần hiện ra trong tầm mắt cô, cái bóng của nó trông giống như một người đàn ông đang đang bước đi. Koln muốn nhắm mắt, cô muốn nhìn đi chỗ khác. Nhưng đôi mắt cô vẫn đang mở to khi bóng hình đó dừng lại bên cạnh.

‘Nhưng thực ra ngươi có một sự lựa chọn …’

Cô có thể ngửi thấy mùi thịt cháy cùng thứ gì đó gợi nhớ đến cái mùi mà họ đã đốt trong ngôi đền thờ ở Miranda. Một ngôi đền… một ngôi đền chỉ có một căn phòng với vài ngọn nến cùng những vết cào xước trên sàn và những chiếc bát hứng lấy dòng nước chảy ra từ một đường ống vỡ.

‘Tất cả các ngươi đều có thể lựa chọn việc lắng nghe những thiên thần nào …’

Cơn lạnh len lỏi khắp chân tay, bò dần lên cổ và bóp nghẹt Koln.

‘Ngươi có thể nghe theo những giọng nói mà bản thân ngươi biết là đang nói sự thật, những giọng nói sẽ giữ cho linh hồn ngươi an toàn, ngay cả khi điều đó có nghĩa là ngươi sẽ phải trở thành là một đốm lửa nhỏ bé lụi tàn, chứ không phải là thứ ánh sáng của sự vĩnh hằng …’

Máu… Cô có thể ngửi thấy mùi máu, và… và mùi nước…

‘Hoặc ngươi có thể lắng nghe tất cả sự căm ghét, giận dữ và oán than đang chất chứa bên trong mà ngươi đã luôn mang theo như cái cách một người mẹ chăm sóc cho đứa con của mình …’

Mọi thứ chợt thay đổi và thị giác của Koln quay trở lại.

‘Và tất cả các ngươi, loài người các ngươi luôn đưa ra cùng một lựa chọn giống nhau …’

Thứ gì đó sắc nhọn móc nhẹ dưới cằm và nâng đầu cô lên. Hai con mắt màu vàng nhìn thẳng vào cô.

‘Các ngươi luôn chọn lắng nghe những thiên thần đen trong trái tim mình …’

Koln không đủ sức lấy hơi để hét lên.

‘Còn bọn ta thì luôn sẵn sàng lắng nghe mong muốn của các ngươi.’

(phần 2)

Giới hạn của lòng tốt

‘Cô đến từ Terra ư?’ cậu bé hỏi.

‘Đúng vậy’ Mersadie trả lời. ‘Cô được sinh ra ở đó.’ Cô di chuyển quân cờ thủy tinh qua một khe trên tấm bảng trò chơi board game bằng kim loại. Cậu bé cau mày nhìn nước đi đó. Chị của cậu đang ngồi co ro trên ghế, đôi mắt chìm sâu vào vẻ mặt ủ rũ, chăm chú lắng nghe. Cô lớn hơn cậu ít nhất nửa thập kỷ hoặc có thể hơn một chút. Cô bé tên là Mori, còn cậu bé tên là Noon. Chúng là con của Vek. Hai ngày trước, hai đứa nhóc đã tìm được cách vào phòng của Mersadie khi cô đang ngủ và dường như chúng chấp nhận sự hiện diện của cô bởi tính tò mò – hay như một mối quan tâm mới làm chúng quên đi hoàn cảnh đen tối xung quanh. Mersadie đã kể cho những đứa trẻ nghe một câu chuyện, và Noon, ít nhất cũng đã quay trở lại để nghe thêm nhiều câu chuyện khác. Vek đã đồng ý để chúng đến đây cùng người vệ sĩ – cô Aksinya, một bóng đen với đôi mắt lạnh lùng luôn đứng lặng im ở góc phòng.

Mersadie chuyện trò và kể cho Noon cùng Mori nghe những câu chuyện trong lúc chiếc Antius băng qua vùng không gian tối tăm của vùng vịnh nằm giữa Uranus và Jupiter. Dường như các khối khí khổng lồ đang ở giai đoạn ổn định trong chu kỳ quỹ đạo của chúng, việc này làm Jupiter di chuyển theo hướng đi thẳng vào giữa Uranus và phía bên trong hệ sao. Hiện tại, không có vụ nổ nào, không sự hối hả hay căng thẳng đến nghẹt thở đến từ quá nhiều sự việc đột ngột diễn ra cùng một lúc, nhưng theo thời gian chậm rãi trôi, xuất hiện một vòng xoáy nghiền nát mọi thứ khi áp lực tăng dần lên trong chính suy nghĩ của tất cả những người trên con tàu này.

‘Nó như thế nào, Throneworld ấy? Trông nó như thế nào nhỉ?’ Noon hỏi.

Mersadie nhún vai và mỉm cười.

‘Cô không biết hiện tại giờ nó trông như thế nào. Cô đã không ở đó trong một thời gian rất dài. Nhưng cháu có muốn biết sự thật không?’ Cô nghiêng người qua tấm bảng bày đầy những quân cờ đủ màu và hạ giọng thì thầm. ‘Cô luôn nghĩ nơi ấy trông thật xấu xí. Mây mù phủ kín bầu trời. Đã từng có những vùng biển, rất lâu về trước, lâu đến độ không còn ai có thể nhớ chính xác. Giờ đây chỉ có tro tàn và nồng nặc mùi hóa chất. Rất nhiều tòa nhà được xây dựng cao chót vót. Và rất nhiều con người, nhiều hơn mức cháu có thể tưởng tượng. ‘

‘Cô đã đi đâu thế?’ Mori hỏi từ phía bên kia căn phòng. Mersadie nhìn xung quanh cô bé, nó gần như không cử động chỉ đang chăm chú nhìn cô bằng ánh mắt sắc bén. ‘Cô nói là đã đi xa khỏi Terra trong một thời gian rất dài – vậy cô đã đi đâu?’

Mersadie giữ lấy ánh mắt của cô gái bé nhỏ ấy, suy nghĩ lựa chọn cách trả lời.

‘Cô đã tham gia vào cuộc hành trình tạo ra Đế chế Imperium hiện tại.’

‘Điều đó nghĩa là sao?’ cô bé tiếp tục.

‘Đủ rồi,’ Aksinya lên tiếng từ góc phòng.

Mersadie ngước nhìn người vệ sĩ, rồi hướng mắt xuống những con cờ trên tấm bảng, sau cùng cô nhìn Noon. ‘Cô nghĩ nhóc thắng rồi đấy,’ Mersadie nhẹ nhàng nói.

Tiếng còi báo động chợt kêu vang ầm ĩ quanh họ.

Một chiếc assault pod đã đâm thẳng vào xương sống của Antius. Các móng vuốt vươn ra hai bên sườn của nó cắm sâu vào thân chiếc tàu vận tải và kéo phần còn lại của cỗ máy sát vào thân tàu. Những vòng răng sắc nhọn của máy khoan bắt đầu xoay tròn kèm theo đó là từng chùm melta – beam bắn vào phần vỏ tàu không có lớp bảo vệ làm nó sủi bọt và nóng chảy thành một thứ dung dịch màu cam sáng. Các khối thuốc nổ định hình sẵn từ phần đáy cỗ máy được khai hỏa. Vụ nổ đấm xuyên qua lớp kim loại phồng rộp và biến nó thành một tia chất lỏng nóng trắng. Chiếc assault pod rung lắc mạnh khi móng vuốt kim loại trên chân ra sức bấu vào sâu hơn, kéo hàm răng lởm chởm há to cắn ngập vào vết thương đang phát sáng trước mặt.

Đợt chất nổ thứ hai bắn ra và xé toạc những inch cuối cùng của thân tàu Antius. Một làn sóng xung kích quét ngang các lối đi gần lỗ thủng. Cánh cửa sập chỉ còn một nửa bung ra khỏi bản lề. Một thủy thủ đoàn đơn độc ở gần điểm va chạm bị quăng mạnh vào tường biến thành một con búp bê dị dạng nhồi đầy thịt nát và xương vụn.

Một lỗ hổng hình con mắt mở ra giữa hàm răng ở đáy assault pod cho phép nhiều thân hình thoát ra từ đó. Bộ giáp void armour màu đỏ thẫm khoác bên ngoài, các ống áp suất trườn ngoằn ngoèo nối phần balo kim loại trên lưng với chiếc mũ giáp đóng kín của chúng.

Trong khoang phòng chính ở phía đuôi tàu, Mersadie bật dậy đứng lên khỏi sàn khi vụ nổ từ đợt tấn công làm rung chuyển mọi thứ.

Cùng lúc đó, Aksinya đã kịp hành động, người vệ sĩ bế hai đứa trẻ lên và lao về phía cánh cửa nhanh như một chiếc bóng, một tay cô nắm chặt khẩu súng lục nòng dài.

‘Aksinya,’ Mersadie kêu lên. Có điều gì đó không đúng, thứ gì đó hiện ra mờ nhạt từ ký thức mà Mersadie không thể tập trung để nhớ lại. Da sau gáy và cánh tay của cô nổi gai ốc. Trong mắt mình, cô có thể nhìn thấy hình ảnh con sói trong giấc mơ đang mỉm cười với cô bằng hàm răng sắc nhọn đẫm máu của nó. ‘Đừng đi. Có thứ gì đó -‘

Người vệ sĩ quay người, tay vẫn đang thao tác mở cửa.

‘Tôi cần đến chỗ Ngài Vek.’ Cánh cửa mở ra và Aksinya quay lại liếc nhìn Mersadie, chiếc mặt nạ với cảm xúc luôn được kiểm soát chặt chẽ trên khuôn mặt cô tuột xuống trong một giây để thể hiện sự khinh bỉ. ‘Cô đã mang điều này đổ xuống đầu tất cả mọi người. Tôi mong bọn chúng bắt được cô ngay lập tức.’ Nói rồi cô quay đầu bước đi. Đôi mắt của Noon mở to khi cậu bé nhìn Mersadie từ trên vòng tay của Aksinya.

‘Không,’ Mersadie hét lên. Cô đang run rẩy, cơn chấn động thoát ra từ linh hồn cô như một khối thuốc nổ đang chực chờ bùng cháy. Trong đầu cô hình ảnh những biểu tượng mà cô đã thấy trong giấc mơ có mặt Keeler hiện lên, các hành tinh và các dấu hiệu, các biểu tượng và ý nghĩa của chúng. Các dấu hiệu đã thay đổi, chúng đang chuyển động, rực sáng với sức nóng kinh khủng cùng làn khói mù mịt. Và rõ ràng có một âm thanh đang hét vang bên tai cô, cô biết rằng đó là một lời cảnh báo. ‘Có thứ gì đó khác thường … thứ gì đó đang đến … Làm ơn, đừng đi!’

Động tác của Aksinya trông như thể cô ấy thậm chí sẽ không dừng lại dù chỉ một giây. Nhưng sau cùng, cô dừng lại thực rồi rút một khẩu súng lục cỡ nhỏ từ trong áo choàng và ném xuống sàn dưới chân Mersadie.

‘Hãy xem đây là giới hạn của lòng tốt trong tôi.’

Rồi Aksinya biến mất, mang theo hai đứa trẻ đi cùng khi hoà mình vào ánh đèn nhấp nháy bên ngoài hành lang. Mersadie đứng chết lặng nhìn khẩu súng dưới chân, chao đảo bởi cảm giác về sự nguy hiểm và mối đe dọa vô hình đang nhấn chìm cô. Sau đó cô rít lên một tiếng chửi rủa, cúi xuống, nhặt lấy khẩu súng và chạy thật nhanh theo người vệ sĩ.

Chúng tôi đến đây vì cô

Vek đang chạy khi chiếc assault pod kích hoạt đợt chất nổ thứ hai. Cơn chấn động chạy dọc khắp con tàu. Tiếng la hét nhấn chìm tiếng còi báo động. Một vài thành viên trong kíp lái cố tìm thứ vũ khí mà họ đã lấy ra từ tủ đựng súng trên chiếc Antius, Vek đã chọn một lasgun. Bàn tay anh sờ soạng trên bao đựng súng trong lúc hướng về phía cánh cửa dẫn ra khỏi cầu tàu. Mồ hôi túa ra ướt đẫm cùng hơi thở hổn hển ép chặt hai lá phổi, cơ thể anh run lẩy bẩy bên dưới lớp quần áo. Ai đó có thể đã lên tiếng gọi nhưng Vek không nghe thấy hay dừng bước. Tất cả những gì anh nghĩ đến lúc này là những đứa con của mình. Hai đứa trẻ đang ở bên dưới, cách anh 2 khoang tàu, gần vị trí họ bị tấn công.

‘Cầu xin Hoàng đế bảo vệ chúng con.’ Đó là những gì Sadia, vợ anh, đã nói khi lần giới thiệu anh đến với hội Temple of the Saviour Emperor. ‘Ngài đã luôn luôn lắng nghe và ngài vẫn sẽ mãi như vậy.’

Vek đi xuống cầu thang xoắn ốc từ khoang lái. Anh thấy một người lính nhưng người đàn ông lập tức quay đầu bỏ chạy khi Vek hét gọi anh ta.

‘Nhưng làm thế nào điều đó có thể là sự thật khi hàng tỷ người đã chết?’, Vek đã hỏi. ‘Làm sao chiến tranh lại có thể xảy ra nếu Ngài thực sự bảo vệ chúng ta?’

Vợ anh chỉ nhún vai.

‘Nếu thiên hà này không ngập tràn bóng tối và đầy rẫy nguy cơ thì chúng ta còn cần gì sự bảo vệ của Ngài cơ chứ?’

Một tiếng nổ khác làm rung chuyển mọi thứ. Các bức tường xung quanh rền rĩ như tiếng vang từ một cái cồng khổng lồ. Vek thở hổn hển, mồ hôi giàn giụa đổ xuống hai mắt.

‘Cầu xin Ngài, xin Ngài hãy bảo vệ …’ anh gắng lấy hơi trong khi thì thầm trong đầu. Xin Ngài hãy bảo vệ lũ trẻ.

Lối ra đã ở trước mặt. Một tiếng hét vang lên từ phía sau lưng, anh nhận ra giọng nói máy móc của vị tech – priest.

Cánh cửa nổ tung thành những mảnh nhỏ thổi bay Vek ngược trở lại.

Có thứ gì đó đã đâm thẳng vào ruột Vek. Anh choáng váng. Không khí tràn ra khỏi phổi làm anh dần ngất đi, đôi bàn tay vẫn lờ mờ cảm giác nắm chặt khẩu lasgun. Cú va chạm tiếp theo xảy đến, lần này là xương sườn khi anh tông phải một cây cột chống và gục hẳn xuống sàn.

Có nhiều thân hình khác chất đống xung quanh, thậm chí đè lên phía trên Vek. Những hình dạng to lớn tràn vào con tàu qua khe hở vừa bị chọc thủng. Áo giáp màu đỏ, mũ bọc kín mặt chỉ để hở các khe mắt màu đen, súng trên tay còn đang bốc khói. Từng chìm tia lửa vụt sáng. Vek cố gắng bò dậy, cố gắng trườn lên phía trước, cố gắng rút súng ra…

‘Anh nên học cách tin tưởng nhiều hơn,’ Sadia đã nói với anh như thế.

Tay chân Vek không cử động được. Dù có cố thế nào, anh vẫn không cảm giác được điều gì cả.

‘Cội nguồn của đức tin không chỉ là tin tưởng bằng tâm trí mà còn phải tin tưởng bằng cả linh hồn …’

Toán lính mặc giáp bắt đầu di chuyển, nổ súng theo từng bước đi, chúng hành động nhanh chóng nhưng chắc chắn. Vek có thể nghe thấy tiếng la hét tắt dần, anh nhìn thấy thế giới trở nên méo mó, vặn xoắn và rỉ ra màu đỏ ở bên rìa tầm mắt.

‘Mọi thứ đều đã được lên kế hoạch và Ngài đang quan sát tất cả chúng ta …’

‘Trống (Clear)’ một giọng nói méo mó như đến từ một chốn xa xăm nào đó.

‘Tất cả những gì anh cần làm chỉ đơn giản là tin tưởng …’

Vek nhìn thấy khuôn mặt của Noon và Mori hiện lên trong tâm trí, sắc nét hơn cả những bóng đỏ đang di chuyển đến gần.

‘Tên này còn sống’, âm thanh lần này gần hơn, dường như ở cạnh bên. Vek chợt nhận ra mọi thứ đã trở nên yên ắng đến nhường nào. Ánh đèn vẫn nhấp nháy, nhưng không có tiếng còi hú, không có tiếng la hét…

‘Chỉ thế thôi?’ Vek hỏi lại. ‘ Nhưng dường như chỉ tin tưởng là chưa đủ.’

‘Đủ chứ,’ vợ anh dịu dàng đáp. ‘Vì đó đã là tất cả những gì mà chúng ta có thể cho đi rồi, tình yêu của em.’

Vek ngước nhìn lên khe mắt đen hun hút được đục lỗ ngay ngắn trên chiếc mũ giáp màu đỏ thẫm.

‘Hoàng đế…’ Vek cố mở miệng, anh nghe thấy tiếng ục ục và khàn đặc trong giọng nói của chính mình. Nòng súng đang chỉa thẳng che khuất phần lớn căn phòng, gần đến mức anh có thể thấy vết cháy xém ở sâu bên trong. ‘Cầu xin Ngài hãy bảo …. –’

Mersadie có thể nhìn thấy ánh lửa từ phía sau góc tường đằng xa. Cô đi chậm lại, cúi thấp người áp sát vào tường, tay nắm chặt khẩu súng. Từng loạt đạn lao vun vút đập vào các đường ống và lưới sắt rồi rơi xuống sàn. Cô đang thở dốc. Một vị đắng tràn ngập miệng và mũi. Mersadie ngoài nhìn lại quãng đường cô vừa chạy băng qua. Một cánh cửa blast door đã đóng kín lối đi sau lưng cô. Liệu cô có thể mở nó ra không? Nếu có thì cô sẽ đi đâu đây? Còn Nilus thì sao? Người hoa tiêu ấy đang ở đâu?

Tiếng khóc của một đứa trẻ làm cô giật mình, ngẩng đầu lên nghe ngóng. Một loạt đạn khác làm tiếng khóc ngày một to hơn. Ý nghĩ quay trở lại đường cũ biến mất. Mersadie nhanh chóng bò đến chỗ góc tường để quan sát.

Lối ra tiếp theo chỉ cách chỗ cô hai mươi bước chân. Đó là một cánh cửa nhỏ, dạng cửa sập, có hình oval như một quả trứng. Hai đứa trẻ đang trốn dưới đường ống dẫn nhô ra từ bức tường, chúng ở giữa Mersadie và cánh cửa. Mori siết chặt em trai mình hơn khi một viên đạn làm tóe lửa đường ống phía trên. Aksinya đang nấp cạnh cánh cửa sập, hai tay cầm súng lục, liên tục bắn xuyên qua khe cửa hé mở đáp trả tiếng súng từ phía bóng tối đối diện. Cô cúi thấp người về phía sau khi một loạt đạn mới xé toạc hành lang. Mersadie bắt gặp ánh mắt của cô ấy và nghĩ rằng cô đã nhìn thấy một tiếng chửi thề bật ra trên môi của người vệ sĩ. Một tiếng nổ lớn hơn vang lên, ánh lửa thắp sáng lối đi rồi loạt đạn bolter ập tới đục thủng bức tường đang che chắn cho Aksinya. Mersadie nhìn thấy tia sáng từ họng súng ánh lên phản chiếu màu đỏ của bộ giáp ngay trước khi cúi đầu xuống. Có một toán lính đang tiến về phía Aksinya. Người vệ sĩ và những đứa trẻ đã bị mắc kẹt.

‘Mersadie!’ Aksinya hét gọi.

‘Tôi nghe,’ Mersadie đáp lại. Đạn bolter tiếp tục xẻ dọc hành lang bên ngoài. Mersadie nghe thấy tiếng đáp trả liên hồi từ những khẩu súng lục của Aksinya.

‘Có một chiếc shuttle’, người vệ sĩ hét lên. ‘Phía dưới, cách đây hai boong tàu. Mã lệnh ghi đè khẩn cấp cho các cửa phóng là Juno’.

‘Tôi hiểu rồi,’ Mersadie trả lời trước khi nhận ra việc cô sắp làm.

‘Đón hai đứa nhỏ và dẫn chúng đến đó ngay.’

Mersadie gật đầu kiên quyết. Mọi suy nghĩ về Nilus, về những mục đích lớn lao hơn hay về kết cục cuối cùng mà cô mong muốn bỗng chốc trở nên thật xa vời. Một tiếng chuông lớn vang vọng trong đầu và tai khiến chân tay cô run rẩy dữ dội. Aksinya nhìn chằm chằm Mersadie thêm 1 khoảng khắc ngắn ngủi.

‘Hãy sẵng sàng!’ Aksinya ra lệnh. Mersadie gật đầu xác nhận, miệng và cổ họng khô rát. ‘Đi đi!’ Aksinya hét lên và bật dậy nửa quỳ trên sàn, những khẩu súng lục trong tay cô khạc lửa vào bóng đêm trong lúc Mersadie lao tới với hai bước thật dài. Một tên lính giáp đỏ nặng nề bước đến cạnh cánh cửa. Dù lý do là Aksinya đã không nhận ra kẻ thù ở gần họ đến mức nào hay chỉ đơn giản là chúng đã băng qua làn đạn để đến được đây thì Mersadie cũng sẽ không bao giờ biết được. Mersadie nhào sang một bên của lối đi khi khẩu súng trong tay tên lính gầm lên, phát đạn lập tức đục một lỗ bự chảng ngay chỗ cô vừa đứng.

Aksinya không hề bối rối. Phát súng đầu tiên của cô trúng vào ngực kẻ thù, viên đạn thứ hai bắn vào cùng vị trí chỉ một giây sau đó và xuyên thủng lớp giáp đỏ. Tên lính bị đẩy bật ngửa. Máu bùng sáng lấp lánh. Aksinya giật phắt sang một bên tránh chùm tia sáng xẹt qua trong khoảng khắc. Mersadie có thể nghe thấy tiếng rít trong không khí khi chùm tia băng ngang qua cả hai. Aksinya lấy trụ, xoay người thấp sát sàn theo đà quán tính từ động tác trước, cô đá gót chân vào đũng quần của hình người vừa bước qua cửa. Sau đó cô chồm dậy, một con dao găm xuất hiện trên tay. Tên lính phản xạ đưa tay lên để chặn đòn tấn công, nhưng mũi dao bén nhọn đổi hướng đâm xiên từ phía dưới cằm mũ giáp. Aksinya kích hoạt trường năng lượng và hộp sọ của kẻ thù phát nổ ngay trong chiếc mũ của hắn. Cái xác không đầu khụy xuống. Aksinya rút con dao ra, với tay giật chốt quả lựu đạn treo trên người và đá cái xác văng trở lại qua ngưỡng cửa trước khi nó kịp gục hẳn. Cô hoàn thành chuỗi động tác ấn tượng đó bằng cách nhảy lùi lại, không quên nhặt con dao lên trong lúc di chuyển. Từng loạt đạn mới nổ vang, tiếp tục đuổi theo cô sát nút.

Mersadie bắt gặp ánh mắt của người vệ sĩ. Có những vết cháy xém trên quần áo của Aksinya và một vết đỏ sẫm đang lan rộng trên bụng. Cơn thịnh nộ bùng cháy trong mắt khi Aksinya nhìn thẳng vào Mersadie.

‘Đưa bọn trẻ đến chiếc shuttle ngay!’ cô ấy hét lên.

Một vụ nổ màu cam quét ngang qua mọi thứ. Những mảnh vải cháy và áo giáp vỡ vụn nằm rải rác trên sàn tàu. Khói làm không khí vón cục. Mersadie hét lên trong đau đớn khi áp lực từ vụ nổ đổ ập lên người cô. Các chùm tia thắp sáng màn khói, làm lu mờ không gian ngập tràn màu đỏ của ánh đèn báo động. Aksinya cuối cùng bị một phát súng bắn trúng. Trong một khoảng khắc, dưới tấm vải liệm màn đỏ đang bao phủ tất cả, Mersadie nhìn thấy cơn đau vặn vẹo trên gương mặt của người vệ sĩ.

‘Đi ngay!’ Aksinya hét lên rồi quay người bắn trả.

Mersadie dùng tay tựa vào tường rồi bật dậy chạy đến chỗ hai đứa trẻ đang co ro bên dưới đường ống. Noon đang khóc, những giọt nước mắt ướt đẫm trên má. Mori thì mở to mắt và thở mệt nhọc khi nhìn lên Mersadie. Cô bé đang nói gì đó, nhưng tiếng chuông trong đầu nhấn chìm tất cả âm thanh khác, nó đang nhồi thẳng vào hộp sọ của Mersadie. Cô cảm thấy mình sắp nôn.

‘Đi với cô nào,’ Mersadie nói và đưa tay về phía Mori. Cô bé bối rối lùi lại. ‘Mori, chúng ta cần phải rời khỏi chỗ này ngay.’ Cô bé vẫn còn do dự nhưng nhanh chóng gật đầu và đứng dậy, một tay nắm lấy Mersadie, tay còn lại kéo em trai mình bước tới. Aksinya tiếp tục bắn yểm trợ cho Mersadie cùng lũ trẻ khi họ chạy đến khúc cua cuối hành lang ở hướng ngược lại. Họ đã đến được góc tường. Phía sau lưng, tiếng súng vang lên không ngớt, những tia năng lượng ngập tràn khắp nơi. Mersadie có thể nhìn thấy cánh cửa blast door đóng kín ở cánh cô ba mươi bước chân. Chỉ ba mươi bước nữa thôi và sau đó…

Đột nhiên, đèn báo trên ổ khóa cửa nhấp nháy chuyển sang màu xanh lục. Đôi chân Mersadie dừng lại. Cánh cửa nặng nề bắt đầu chầm chậm mở ra, trôi ngược vào trong bức tường của hành lang. Cô nghe thấy tiếng gầm gừ đau đớn khi Aksinya thu mình cạnh cánh cửa sập ở hướng ngược lại. Đạn không ngừng dội vào các bức tường hành lang. Mori vẫn đang chạy về phía trước, cô bé kéo tay Mersadie. Nhiều bóng người hiện ra phía sau cánh cửa trước mặt cô, họ mặc giáp đỏ.

Mersadie giật mạnh tay Mori khi tên lính đầu tiên bước vào tầm mắt, súng giương lên sẵn sàng. Mori lúc này mới nhìn thấy mọi thứ, cô bé há to miệng định hét lên. Khẩu súng khai hỏa vừa kịp lúc Mersadie kéo 2 đứa trẻ nấp sau bức tường. Tiếng súng chát chúa ghim vào tường và sàn tàu. Nhiều binh lính hơn đổ vào từ cánh cửa vừa mở ra. Và đó cũng là lối thoát duy nhất của họ.

Mersadie quay đầu lại, cô nhìn thấy nơi Aksinya đang ngồi trên sàn. Những vết đen giờ đã loang ra khắp thân hình và phía trên đùi bên phải của cô ấy, một phần thịt đã biến mất. Aksinya đang nạp đạn cho hai khẩu súng lục, khuôn mặt nghiêm nghị và cứng rắn. Nhìn cảnh đó, Mersadie cảm thấy sức nặng của khẩu súng lục trong tay và cố gắng bắn hai phát nhưng sức giật của khẩu súng đẩy viên đạn bay lên quá cao. Thế giới quanh họ ngập tràn tiếng súng, càng lúc càng gần, dần khép chặt từ hai đầu như một gọng kềm. Mori đang run rẩy, còn Noon thì gào rú lên từng hồi.

Trong tâm trí Mersadie, tất cả những gì cô có thể nghĩ đến là ánh trăng nổi trên mặt nước, là hàm răng sắc nhọn và một đôi mắt màu vàng. Những tiếng rít trong giấc mơ phả vào suy nghĩ của cô.

Bọn ta đến vì cô… Bọn ta biết tất cả… Bọn ta ở đây vì cô…

Sự hoảng loạn nhấn chìm Mersadie bằng một dòng adrenaline tràn ngập. Cô cần phải chạy. Cô cần phải chạy đi ngay bây giờ.

Mersadie nửa bò dậy. Mori cố níu cô lại.

‘Cô đang làm gì thế?’ cô bé hét lên.

Mersadie cố gắng gạt tay đứa trẻ ra. Cô phải chạy trốn ngay, bản năng thuần khiết và thô sơ thúc đẩy cô khiến những suy nghĩ khác trở nên vô nghĩa.

‘Họ sẽ cố gắng ngăn cản cô,’ khuôn mặt của Keeler trong giấc mơ hiện ra. ‘Những người bạn cũ giờ đây là kẻ thù. Họ sẽ đến tìm cô. ‘

Mersadie lần nữa cố đứng dậy khỏi chỗ nấp.

Hai tên lính đỏ thẫm chỉ cách đó bốn bước chân, súng đã được lên đạn, các ngón tay chờ sẵn trên cò. Thời gian bỗng chốc trở thành một khoảnh khắc được đếm bởi những nhịp thở. Mersadie giương mắt nhìn tất cả khung cảnh tuyệt vọng ấy.

Toán lính mặc giáp đang tiến đến… Tia năng lượng và đạn thắp sáng bóng tối… Hình ảnh mờ ảo của Aksinya khi cô ấy cố gắng đứng dậy và chống trả với kẻ thù …

Và rồi Mersadie nhìn thấy một cái bóng đen. Nó đang đứng ở cánh cửa blast door phía sau bọn lính. Nó đứng lặng yên ở đó, thân hình thẳng tắp. Trông nó như một khung hình bị đóng băng khỏi thời gian.

Tiếng chuông trong đầu cô tăng nhanh, tất cả những gì cô có thể nghĩ đến là thông điệp mà cô đang mang theo trong ký ức cùng mùi của một bộ lông ẩm ướt, máu và sương giá.

Kẻ thù không dừng lại, các ngón tay vẫn siết chặt cò súng. Nhưng lúc này, cái bóng đen bắt đầu di chuyển, trong chớp mắt, giữa khoảng khắc ngắn ngủi theo nhịp nhấy nháy của ánh đèn báo động, nó biến mất rồi lại xuất hiện một cách kỳ lạ.

Ánh đèn màu đỏ, bóng tối …

Những bộ giáp đỏ, cái bóng màu đen…

Ánh đèn, bóng tối …

Màu đỏ.

Cái bóng đã ở sau bọn lính.

Màu đen.

Cái bóng đã bước đến ngang hàng với bọn lính. Mersadie có thể nghe thấy tiếng chuông trong đầu tăng lên theo từng phần trăm giây.

Màu đỏ.

Máu bắn ra. Bọn lính cố xoay người khi nhận ra bị tấn công nhưng cái bóng đã ở giữa đội hình của chúng, di chuyển giật cục như một mảnh ghép bị bóc ra từ bức tranh thực tại.

Màu đen.

Aksinya vẫn đang ngồi trên sàn nhà cạnh cửa sập, khẩu súng lục nằm im trên tay. Một màn sương máu bò dần lên bức tường. Các thi thể bị quăng quật tứ tung, gãy vụn và dập nát.

Màu đỏ.

Cái bóng đã đứng yên trở lại, nó đang tắm trong cơn mưa máu, chầm chậm quay đầu sang nhìn Mersadie. Lúc này, cô có thể nhìn thấy một phần khuôn mặt ẩn trong bóng tối. Đó là đôi mắt nhuộm đỏ đang lồi ra khỏi hộp sọ phủ đầy vân đen của Phó thuyền trưởng Koln.

‘Chúng tôi đến đây vì cô,’ sinh vật đó cất tiếng nói, những ngón tay nó vươn trong bóng tối băng qua không khí. Điều đó làm Mersadie nhớ lại lúc cô chạy băng qua khu rừng đen trong mơ, đằng sau là tiếng hú dồn dập đuổi theo ‘Chúng tôi là -‘

Vụ nổ laser xé toạc một bên hộp sọ của Koln làm thân hình nó bật ngửa ra sau. Mersadie nổ súng một lần nữa, rồi một lần nữa, cô bóp cò theo từng bước đi về phía trước. Sinh vật ghê tởm trước mắt cô loạng choạng khi những vụ nổ thổi bay từng phần cơ thể. Nó co giật, máu thịt bắn ra tung tóe khi nó ngã xuống sàn.

Mersadie dừng lại, chết lặng, thở hổn hển, đèn báo hết đạn nháy đỏ trên khẩu súng trong tay. Âm thanh duy nhất lúc này là tiếng máu nhỏ giọt tý tách xuống sàn tàu từ trần nhà phía trên.

THE WARP

Tuyết sủi bọt từ nền trời đen kịt khi người đàn ông lớn tuổi bắt đầu leo lên ngọn núi. Bộ lông thú phủ đầy tuyết cùng những mảnh vải xơ xác như giẻ rách bao quanh cơ thể ông ta. Cơn gió quất mạnh khiến người đàn ông loạng choạng quỳ xuống đất, đôi tay chôn sâu vào tuyến cố chống đỡ cả thân hình.

Lạnh.

Cái lạnh như thiêu đốt.

Cái lạnh lúc nóng hơn cả lửa, lúc lạnh hơn cả băng.

Ông lão thở hổn hển, trong phút chốc bông tuyết đang rơi xuống không còn là bông tuyết nữa mà là đại diện cho từng khoảng khắc đau đớn khi người nào đó đang phải chịu đựng ở thực tại: đó là tiếng than khóc của một người mẹ bên cạnh nơi trú ẩn nhỏ bé rách nát hay đó là suy nghĩ cuối cùng của một người đàn ông đang hấp hối trước lúc ra đi hoặc chỉ đơn giản là cảm giác khi một lưỡi dao từ từ đâm sâu vào cơ thể. Lạnh lẽo, sắc bén, nó đốt cháy tất cả mọi giác quan.

Ông gượng đứng dậy.

Phía sau lưng, người đàn ông nghe thấy tiếng tru của bầy sói. Ông dừng bước, xoay người lại quan sát. Ánh sáng của ngọn đuốc cháy rực trên tay bập bùng trong cơn gió đang ào ạt thổi. Đôi mắt ông gặp lại ánh lửa khi nhìn xuống con dốc phía bên kia khu rừng. Cây cối giờ đã vươn cao giơ những cành trơ trọi lá lắc lư đón gió. Lúc này, nhiều đôi mắt đang nhìn ông, chúng có màu đỏ, màu xanh lục hay màu vàng vọt bệnh hoạn. Ở phía xa, vẫn có thể được nhìn thấy, vượt lên trên đỉnh những ngọn cây là ánh sáng của ngọn tháp nơi ông lão rời đi để thực hiện cuộc hành trình này. Gió xào xạc và bầy sói như lướt đi cùng với nó, chúng sinh ra từ bóng tối và để lại băng giá đằng sau mỗi bước nhảy. Ông vung mạnh ngọn đuốc cố soi sáng xung quanh. Hàm răng sói rộng mở, vài chiếc răng nanh bị gãy còn ghim chặt vào phần nướu đã thối rữa. Thứ gì đó như đồng thau nóng chảy vương vãi ra từ hàm răng sắt, ngọn lửa xanh bùng lên từ những móng vuốt như thuỷ tinh đen nhánh.

Ánh chớp bừng sáng.

Màn đêm bị xé vụn.

Tuyết rực cháy.

Bầy sói bị đẩy lùi, tiếng kêu đau đớn của chúng lấp đầy những cơn gió tuyết đang đổ xuống từ bầu trời.

Ông lão đang leo lên đỉnh núi từ sườn núi, hai chân ông cắm sâu vào các khe rãnh còn đôi tay cố mò mẫm bám lấy những tảng đá trơn tuột do băng phủ kín trên bề mặt. Tiếng sói tru lại nổi lên. Đích đến của ông ta là một miệng hang nằm gần vị trí ông đang đứng, nó đơn giản là tồn tại ở đó ­– giữa những phiến đá. Mỗi một bước tiến về phía trước đều là kết quả từ sự thôi thúc của ý chí, với tốc độ này thì ông ta sẽ đến được nơi mình muốn trong chốc lát. Móng vuốt của lũ sói đã sắp chạm đến người đàn ông. Gần đến mức ông có thể cảm thấy hơi thở của chúng ở ngay sau lưng mình. Ông xoay người lại ném ngọn đuốc đang cháy lên cao. Ngay lập tức, một cột sét lớn, lởm chởm răng cưa xuất hiện bắt lấy ngọn đuốc rồi đánh thẳng xuống đất. Ánh sáng trắng bao trùm cả sườn núi. Bóng của lũ sói tan chảy hòa vào mặt đất nhưng nhiều con khác đang kéo đến. Người đàn ông vừa kịp lấy đà nhảy vào cánh cửa bằng đá dẫn vào lòng núi, và rồi …

Cái hang trải dài trước mặt ông. Từng bậc thang được đục thẳng vào nền hang cứng rắn. Những đường viền lấp lánh của lớp vỉa quặng tinh thể chạy dọc hai bên bức tường. Tiếng nước nhỏ giọt trên nền đá vang đến tai ông lão. Ánh lửa bùng lên soi sáng các bậc thang khi ông ta bước dần xuống. Có một cánh cửa hình vuông đang chờ đợi ở cuối con đường. Ông chậm rãi dừng lại trước ngưỡng cửa rồi sải chân bước vào.

Có lẽ kích thước ban đầu của cái hang khá nhỏ nhưng nó đã được mở rộng, đầu tiên là bằng những chiếc rìu đá, sau đó là những công cụ tạo nên từ đồng và sắt. Ánh sáng soi sáng bên trong phát ra từ một đầu bấc cháy nằm trong cái bát đựng đầy thứ dầu trong suốt. Những chiếc ghế dài lồi ra từ bức tường hai bên cửa ra vào. Mặt ghế bóng loáng do bị mài mòn bởi thời gian và những vị khách đã từng đến đây. Nhiều rãnh dọc chạy xuống sàn nhà từ phía trên trần, nơi một khối tinh thể thô trồi ra với các biểu tượng và hình vẽ phủ kín xung quanh: hình nửa người nửa ngựa, dòng nước đang chảy xuống từ chiếc cốc, đầu một con bò đực.

Người đàn ông mặc lông thú và vải rách dừng lại.

Trong phòng còn có một người đàn ông khác. Người này đang khoác chiếc áo choàng màu vàng, ngồi trên một trong những chiếc ghế dài, tay cầm cây quyền trượng, trên đầu đội vòng dây tết bằng lá nguyệt quế và những sợi bạc. Anh ta trông như còn trẻ tuổi.

Cả hai người nhìn nhau một lúc lâu. Rồi ông lão trong bộ lông thú lắc người, kéo chiếc áo khoác xuống để lộ cái áo dài màu đen bên trong đã rách bươm và lấm tấm mồ hôi. Các bắp thịt trên cánh tay ông teo đét như những sợi dây leo khô héo, đôi vai gầy sọp đi vì tuổi tác còn da đầu thì trọc lóc và lốm đốm đồi mồi. Những chiếc nhẫn vàng nhiều hình dạng lấp lánh trên các ngón tay ông: đầu một con cừu đực, một mặt trời đang tỏa sáng và một viên đá opal màu xám.

‘Xin chào, người bạn già’, người đàn ông trẻ tuổi phủ trong màu vàng lên tiếng.

Ông lão trong tấm áo rách màu đen gật nhẹ đầu và tiến về phía trước. Trong khoảng khắc, bước chân ông bỗng loạng choạng, đôi mắt nhắm nghiền vì đau đớn. Vòm đá xung quanh kêu lên kẽo kẹt, một đám bụi từ trần hang rơi xuống. Người đàn ông màu vàng ngẩng đầu nhìn lên rồi hướng ánh mắt nhìn ông lão, anh nhẹ nhàng ngồi xuống băng ghế ở phía đối diện.

‘Đây này’, anh ta nói, trên tay là một cái bát bằng gỗ. ‘Tôi có bánh mì, muối và thịt’.

Ông lão gật đầu, cầm lấy cái bát và bắt đầu ăn. Người đàn ông màu vàng tự nâng bát của chính mình và nhấp từng ngụm nhỏ, mắt không rời người bạn đối diện mình.

‘Tôi xin lỗi vì đã phải gọi ông đến đây’, anh ta nói, lúc này trong bát của người đàn ông lớn tuổi chỉ còn lại những mảnh vụn, ‘nhưng chúng ta cần phải nói chuyện’. Ông lão màu đen dùng mu bàn tay lau miệng, đôi mắt đen sâu thẩm của ông nổi bật trên làn da xỉn màu bao bọc lấy khuôn mặt. ‘Mọi thứ đang xảy đến một cách dồn dập’, chàng trai trẻ tiếp tục. ‘Cho đến nay cuộc tấn công của kẻ thù đã diễn ra đúng như những gì chúng ta dự đoán trước. Nhưng dường như có một cái gì đó rất khác, một cái gì đó nằm ngoài phạm vi của mọi thứ …’

Người đàn ông màu vàng bắt đầu đặt từng lá bài xuống băng ghế đá nằm giữa những chiếc bát. Những lá bài cũ kỹ với các hình ảnh đã phai mờ theo năm tháng: một hình người mặc áo choàng sẫm màu, mặt quay sang một bên, đang leo lên một ngọn tháp cao; một người đàn ông đầu chó sói với những thanh kiếm giấu bên dưới lớp áo choàng; một bánh xe tạo thành từ các vì sao đang quay quanh một mặt trăng sắp dần chìm vào bóng tối… Hết lá này đến lá khác, trải bài mở rộng dần lên theo từng lá bài được đặt xuống.

‘Anh thấy đấy’, người đàn ông màu vàng cất lời. ‘Dù có sự thay đổi nhưng cốt lõi của trải bài luôn ở đó, sự cộng hưởng đang ngày càng tăng trong Warp, như các nốt cao đang hòa vào giai điệu được ngân lên từ trước, như các mảnh ghép nhỏ được đặt từng phần lên bàn cờ, như một thứ vũ khí được lắp ráp từng chút một … Tôi không thể nhìn thấy nó là gì, tôi chỉ thấy được cái bóng của nó nhưng tôi biết nó có tồn tại. Nó chính là thứ đứng đằng sau bóng đêm cùng với sự chết chóc đang phủ xuống chúng ta’. Ông lão màu đen đang chăm chú nhìn xuống những quân bài. ‘Còn nhiều dấu hiệu khác cũng xuất hiện. Có quá nhiều yếu tố đang ở không đúng vị trí theo dự đoán. Ví dụ như: thời gian cuộc tấn công nổ ra. Nó đã bắt đầu từ giữa mùa đông, khởi nguồn từ những hố đen sâu thẳm nhất trong vũ trụ. Và còn trình tự diễn ra của nhiều thứ khác nữa … Các hành tinh đang ở vị trí rất đặc biệt ngay thời điểm này. Đó là một sự kết hợp hiếm hoi đã không xảy ra kể từ khi … uhm… kể từ khi đêm tối cuối cùng bị đẩy lui vào quá khứ. Chúng ta đã luôn cho rằng thời điểm xảy ra cuộc tấn công sẽ bị tác động nhiều nhất bởi sự vội vàng của kẻ thù, nhưng nếu lý do thực sự là một điều gì khác thì sao? Điều gì sẽ xảy ra nếu chúng ta đã bỏ lỡ …’

‘Đúng rồi’, người đàn ông màu đen chợt thốt lên, ông đứng bật dậy. Khoảng khắc ấy, ánh sáng từ ngọn đèn dầu đổ bóng ông in lên bức tường và trong chớp mắt, đó không phải là bóng của một ông lão mà là bóng của một người đang ngồi trên ngai vàng, hai bàn tay ôm chặt cánh tay, đầu ngẩng cao. ‘Nó ở đó, bên dưới bề mặt của mọi thứ, bên ngoài rìa màn đêm sâu thẳm. Ta có thể … cảm thấy nó đang lớn dần lên’

‘Nó là gì thế?’, chàng trai trẻ màu vàng hỏi, ‘Kẻ thù của chúng ta đang mưu tính điều gì?’

Ông lão màu đen trầm mặc, hướng mắt nhìn xa xăm. Ông đã phải trả một cái giá đắt để gửi một phần linh hồn của mình đến đây, đến cuộc gặp gỡ bằng tâm trí này, tại một trong những thánh điện thiêng liêng cuối cùng còn sót lại. Ở phía đằng xa dù khoảng cách tại thế giới này chỉ được đong đếm bằng ý nghĩ, là bóng tối đang cuộn tròn, bị kìm hãm theo từng nhịp thời gian, như một cơn sóng chực đổ ập lên bờ cát nhưng bị giữ lại tại một lằn ranh vô hình bởi một ý chí hùng mạnh.

‘Ta không thể nhìn thấy’, Hoàng đế của loài người – The Emperor đáp, Ngài khoác lại bộ lông che phủ cơ thể cổ xưa của mình. ‘Ta không thể nhìn thấy bên trong hay xa bên ngoài rìa của màn đêm. Lúc này đây, hiện tại chỉ là bóng tối còn tương lai thì xa xăm như một đường chân trời vô định. Chỉ có cuộc chiến là tồn tại rõ ràng nhất.’

Malcador, trẻ tuổi và được bao phủ trong màu vàng, im lặng hồi lâu rồi nhẹ gật đầu, chiếc mặt nạ bình thản trên khuôn mặt không che giấu được nỗi lo lắng sâu bên trong ngài Nhiếp chính vương.

‘Những người khác đã biết rồi’, sau cùng Malcador nặng nề nói. ‘Đại Hãn, Đại Thiên thần ­– những người chỉ huy trận chiến … đặc biệt là Rogar. Hành động của kẻ thù không ăn khớp với nhau, nó khiến họ nhận ra có một khoảng trống tồn tại, một cái bóng bấy lâu che khuất sự thật khỏi tầm hiểu biết của họ.’

‘Đó là việc mà chúng – những người con trai của ta phải nhận thấy được’, Hoàng đế đáp, dùng tay vuốt những chiếc lông bị bao phủ với cái lạnh và sương giá chưa tan trên bộ áo khoác. ‘Chúng là răng nanh và móng vuốt, được sinh ra để chiến đấu chứ không phải lùi bước trước kẻ thù. Những điều còn lại là trách nhiệm của ông – bạn của ta, hãy che chở cho các con trai ta, để chúng có thể trở thành những gì mà chúng cần phải trở thành’

The Emperor quay ra cửa.

‘Liệu chúng ta vẫn có thể giành chiến thắng không?’ Malcador hỏi.

‘Đó không phải là câu hỏi mà ông thực sự muốn hỏi ta đúng không?’, Hoàng đế từ tốn đáp, Ngài xoay nhẹ đầu nhưng khuôn mặt vẫn hướng về phía lối ra.

Malcador nở một nụ cười buồn rồi gật đầu thừa nhận.

‘Tạm biệt’, Hoàng đế nói rồi trùm hẳn bộ lông thú lên người, Ngài bước ra khỏi cánh cửa và đi vào đêm tối cùng mùa đông đang gào thét ngoài kia.

Malcador đứng yên tại chỗ, nhìn chằm chằm vào khoảng không đen kịt bên ngoài vòm đá thô sơ. Thời gian như kéo dài vô tận nhưng thực ra lại không quá một nhịp suy nghĩ trong thế giới thực, ông nhìn lại trải bài đang nằm trên băng ghế đá bên cạnh. Rồi ông đưa tay xuống và cầm lên một lá bài trong số đó – lá bài có hình một tòa tháp cao đang vỡ vụn bên dưới tia sét.

‘Liệu chúng ta có thể sống sót? Hay liệu có thứ gì còn có thể tồn tại sau tất cả chuyện này không?’, Malcador thì thầm tự hỏi và nhắm mắt lại.

Ý tưởng và hình ảnh của cái hang dần biến mất trong khi bóng tối reo vang và lao tới chiếm lấy khoảng không mà ngôi đền thiêng ấy vừa để lại.

*P/S: Các bạn vừa đọc chương đánh dấu kết thúc của phần hai trong số 3 phần của cuốn Solar War. Vậy là chúng ta đã đi được 1/2 chặng đường (11/22 chương). Bài dịch đầu tiên là ngày 04/4/2022, nhìn lại thì đã hơn 1 năm. Rất cảm ơn những lời động viên và đóng góp của tất cả anh em trong group. Chúng thực sự là động lực để mình tiếp tục cố gắng hoàn thành việc dịch cuốn Solar War. Thanks again.

Give a Comment

error: You are not allowed to copy this page, Thank you!