MỤC LỤC
1- Hiểm họa Eldar – The Aeldari Empire
Eldar là chủng loài Xenos cổ xưa, về niên đại chỉ thua Necron và chính những kẻ đã tạo ra họ là Old Ones. Hàng triệu năm trước thời đại của Imperium, các Eldar đã tự xưng với cái tên là Aeldari và họ từng thống trị Thiên hà. Tuy nhiên, sau khi đạt tới đỉnh cao thịnh vượng, nền văn minh Eldar bắt đầu tha hóa và suy tàn, Sự Sụp Đổ của Eldar được đánh dấu bởi thảm họa khai sinh ra một Chaos God là Slaanesh. Kể từ đó, họ chỉ còn là một giống loài bị phân tán, chết dần chết mòn, sống lưu vong giữa Thiên hà.
Eldar mạnh mẽ và nguy hiểm bởi họ sở hữu thể chất vượt trội và năng lực tâm linh mạnh mẽ hàng đầu, được Old Ones tạo ra bằng công nghệ di truyền siêu việt nhằm phục vụ cho War in Heaven, trực tiếp đối đầu với quân Necron và C’tan trên những chiến trường đẫm máu nhất của Thiên hà. Sau khi Old Ones thất bại trước Necron và biến mất khỏi Milky Way, Eldar không bị thoái hóa như cách mà Krork biến thành Ork, họ tiếp tục phát triển, trở thành một loài chiếm ưu thế trong vũ trụ vật chất.
Mặc dù là giống loài hư cấu đã được đăng ký bản quyền của các tác giả và nhà phát triển ở Games Workshop, nhưng Eldar được truyền cảm hứng nhiều từ loài Elves trong thế giới kỳ ảo của J. R. R. Tolkien, vốn cũng có giai đoạn thịnh vượng và suy vong. Warhammer 40,000 và Warhammer Fantasy cũng có nhiều điểm tương đồng, chủ yếu khác bối cảnh, nên có nhiều ý kiến suy luận rằng các phe phái của Eldar như Asuryani, Exodite và Dark Eldar chẳng hạn, cũng tương ứng với các nhóm High Elves, Wood Elves hoặc Dark Elves của Warhammer Fantasy.
Nội dung sau đây chỉ giới thiệu những thông tin tổng quan về giống loài Eldar – một trong những chủng tộc chính và quan trọng nhất của Warhammer 40,000. Hiện tại, họ là giống loài bị chia nhỏ thành nhiều Faction, nên không thể nào trình bày hết chỉ trong một bài viết hoặc video. Cũng chính vì phân tán thành những thế lực có lối sống và lý tưởng khác nhau, mà giống loài Eldar cũng có mối quan hệ rất phức tạp và đầy ân oán tình thù với Imperium.
Ở một số trường hợp, Eldar trở thành đồng minh quan trọng của nhân loại, nhưng đôi khi họ cũng có thể trở thành tử địch vô cùng nguy hiểm, nội dung sau đây mình chỉ liệt kê những gì căn bản, quan trọng nhất của mỗi phe mà thôi. Còn chi tiết cụ thể hơn về từng Faction, bao gồm Asuryani, Exodites và Dark Eldar, Harlequin, hay các Chaos Eldar và băng nhóm hải tặc Anhrathe thì xin phép sẽ trình bày chi tiết vào dịp khác trong tương lai nhé.
2- Nguồn gốc bí ẩn của giống loài Eldar?
Cùng với Krork và một số loài khác, Eldar được Old Ones tạo ra để đối chọi với Necron và C’tan. Ở cuối sự kiện War in Heaven, Old Ones lạm dụng sức mạnh từ Warp và thất bại, rồi chính Necron cũng suy yếu sau khi lật đổ các C’tan và đi vào giấc ngủ sâu, thì Eldar vẫn tồn tại, sống sót qua tất cả những diễn biến của cuộc chiến khủng khiếp bậc nhất Milky Way. Trong lúc Krork thoái hóa thành Ork vì không còn một mục tiêu cụ thể để tiếp tục đấu tranh, các Eldar từng bước trỗi dậy thành bá chủ mới của Thiên hà.
Tận dụng những lợi thế vốn có, bao gồm cả hệ thống Webway, Eldar dần chiếm đóng, thuộc địa hóa và cai trị gần như toàn bộ Thiên hà Milky Way mà không gặp trở ngại gì đáng kể. Mặc dù vào thời điểm đó cũng có những chủng tộc khác sở hữu công nghệ tiên tiến và sức mạnh quân sự, nhưng không chủng tộc nào đủ mạnh để có thể đe dọa nghiêm trọng đến sự hưng thịnh của Đế chế Aeldari, chính các Eldar cũng ngạo mạn và xem thường mọi loài khác, vì lúc đó họ bất khả chiến bại.
Loài Ork sau khị bị thoái hóa từ Krork đã trở nên quá thui chột so với chính tổ tiên của chúng ngày trước, từ những chiến binh khổng lồ, dũng mãnh, trang bị hiện đại bậc nhất và hỏa lực khủng khiếp, giờ đây chúng chỉ là một nhóm những gã da xanh ô hợp, bị Eldar đẩy lùi đến những nơi xa xôi của Thiên hà. Trong thời kỳ thịnh trị của Eldar, quân Ork đã không có cơ hội nổi dậy, lũ da xanh này sẽ phải chờ đợi một thời gian dài sau đó mới bắt đầu lấy lại ưu thế trong vũ trụ vật chất.
Khi nói về nguồn gốc của chính mình, Eldar diễn tả và ghi chép lại nó dưới các truyền thuyết theo cách của riêng họ (gọi là Eldar Mythology hoặc Eldar Myth Cycles), những truyền thuyết này được xem là giềng mối của chủng tộc, là văn hóa và truyền thống, giúp kết nối tất cả các Eldar với nhau, đồng thời cũng là cách mà họ dùng để ghi nhớ và lý giải quá khứ từ thời cổ đại.
Cần lưu ý là các truyền thuyết đó sẽ khác với những gì mà người chơi Warhammer 40,000 hoặc người đọc tiểu thuyết của Black Library biết, vì xét trong phạm vi vũ trụ Warhammer 40,000 thì họ không nằm ở ngoài bức tường thứ tư như chúng ta. Hiểu được điều đó là rất quan trọng (và gần như là bắt buộc) để có thể nắm được bối cảnh ngày càng phức tạp của thế giới grim dark này.
Theo Codex: Eldar (4th Edition) cũng như tiểu thuyết Path of the Warrior của tác giả Gav Thrope, chủng tộc Eldar tự nhận là hậu duệ của Isha – nữ thần mùa màng và Kurnous – vị thần săn bắn. Kế đến, thông qua hai tổ tiên trực hệ là anh em Eldanesh và Ulthanesh, người Eldar bắt đầu sinh sôi nảy nở. Thủ lĩnh đầu tiên của họ chính là Eldanesh, với sự hỗ trợ của người anh em Ulthanesh, họ dẫn dắt giống loài Eldar giành nhiều chiến thắng trước những kẻ thù được gọi là Hresh-selain. Đó là cách mà Eldar hiểu về lịch sử và tín ngưỡng của chính họ.
Eldar là một giống loài có năng lực tâm linh mạnh mẽ và liên kết chặt chẽ với Warp, nên trong tín ngưỡng truyền thống vô cùng phong phú của Eldar cũng có rất nhiều vị thần, được gọi chung là The Pantheon, nhóm các thần thánh ấy dần lớn mạnh cùng với sự phát triển của giống loài Eldar. Về bản chất, có thể xem đó là những vị thần nhận được sự tôn sùng của Eldar và họ cũng ban cho Eldar các phẩm chất ưu việt khác như là những món quà. Chúng ta có thể hiểu đơn giản đây là thuyết Sáng Thế của Eldar.
Ví dụ, Asuryan đã ban cho Eldar trí tuệ để họ có thể nhận thức chính mình; Isha đã trao cho Eldar tình yêu để họ có thể thấu hiểu lẫn nhau; Vaul đã trao cho Eldar các công cụ và phương tiện để biến giấc mơ của họ thành hiện thực; Lileath mang đến cho Eldar niềm vui, để họ được hạnh phúc; Kurnous ban cho Eldar sự khao khát, vì vậy họ sẽ hướng tới thịnh vượng; Morai-Heg đã cho Eldar tầm nhìn xa, để họ biết vị trí của mình giữa thế giới; Khaine khiến cho Eldar biết nổi giận, để họ có thể tự vệ nếu bị xâm phạm.
3- Thần tộc trong tín ngưỡng của Eldar
Trong những ngày đầu tiên, không có rào cản giữa các vị thần và người Eldar, thần thánh đi lại giữa kẻ phàm, dạy dỗ và dẫn dắt họ trong một thời đại hòa bình và thịnh vượng. Mặc dù vậy, vẫn có những mâu thuẫn trong nội bộ của chính Pantheon, bởi một ngày nọ, Lineath nằm mơ thấy thần chiến tranh Khaine sẽ bị hủy diệt bởi chính người Eldar. Tin tưởng vào Lineath, Khaine muốn xóa sổ loài Eldar trước khi ông bị họ làm hại, sự kiện này dẫn đến mâu thuẫn giữa Khaine với Isha và Kurnous.
Không đành lòng nhìn Khaine giết sạch những đứa con của mình, Isha và Kurnous cầu cứu Asuryan – vị thần già nhất và là chúa tể của mọi sự sống trong tín ngưỡng Eldar, ông cũng là anh trai của Khaine và có lẽ là kẻ duy nhất mà Khaine kiêng nể. Sau khi cân nhắc, Asuryan đồng ý dừng cuộc thảm sát của Khaine lại, ông tạo ra một bức tường tâm linh ngăn cách người Eldar phàm trần với các vị thần, như vậy là vụ việc được giải quyết một cách tạm thời, vì Khaine không được quyền trực tiếp tác động tới Eldar nữa.
Tuy nhiên, Isha và Kurnous không chịu nổi sự chia cắt ấy. Họ quá yêu thương những đứa con của mình. Hai vợ chồng gặp Vaul, vị thần thợ rèn, chia sẻ về nỗi buồn và sự bất hạnh đang phải gánh chịu. Vaul vốn tốt bụng nên đã đồng ý tương trợ họ, ông giúp Isha và Kurnous rèn những viên đá linh hồn được tạo nên từ nước mắt của Isha, mà qua đó các Eldar phàm trần có thể giao tiếp với thần linh. Từ đó, Isha và Kurnous tiếp tục dạy dỗ, cố vấn cho giống loài Eldar một cách bí mật.
Thế nhưng, những ngày bình yên đã không kéo dài khi Khaine tình cờ bắt quả tang Isha và Kurnous đang liên lạc với người Eldar, vị thần chiến tranh tức giận liền đi kiện cáo với Asuryan. Mặc dù Asuryan biết rõ rằng Khaine là kẻ nóng tính, thô lỗ, ông lại có thiện cảm với Isha và Kurnous, nhưng cũng không thể phủ nhận rằng hai vợ chồng kia đã vi phạm luật chơi do chính ông đặt ra. Thế là Asuryan miễn cưỡng ra lệnh rằng Isha và Kurnous phải bị giao cho Khaine xử phạt, một quyết định mà rồi ông sẽ hối hận.
Khaine được nước làm tới, giở trò tra tấn Isha và Kurnous, sử dụng mọi hành vi độc ác mà hắn biết để trả thù hai vợ chồng nọ. Nhiều vị thần trong Pantheon thầm nghĩ rằng Khaine đã đi quá xa và họ cũng ủng hộ Isha và Kurnous, nhưng vì quá e sợ sức mạnh của Khaine nên đã không ai dám công khai phản đối. Chỉ có một kẻ sẵn sàng đứng ra nói chuyện phải quấy, đó là Vaul. Vị thần thợ rèn dũng cảm đã chính thức yêu cầu Khaine phải trả tự do cho Isha và Kurnous, buộc Khaine phải đi đến một thỏa thuận.
Cụ thể, trong thời gian một năm, Khaine sẽ phải thả Isha và Kurnous để đổi lấy một trăm thanh kiếm thần do Vaul rèn ra. Tất nhiên, Vaul là một thợ rèn bậc thầy đến nỗi bất kỳ thứ gì do ông tạo tác cũng là vật phẩm vô giá, thế nên đây là một giao dịch có lợi cho Khaine, hắn sẽ được sở hữu một kho vũ khí vô tiền khoáng hậu. Vaul bắt tay vào rèn kiếm với lòng tự tin rằng mình sẽ làm được một việc tốt có thể ngăn chặn cuộc nội chiến và thảm họa diệt vong đối với giống loài Eldar.
Thật không may, khi thời hạn một năm qua đi, Vaul chỉ hoàn thành được 99 thanh kiếm. Không còn cách nào khác, Vaul lấy một thanh kiếm phàm trần và trộn lẫn nó với 99 thanh kiếm thần, hy vọng rằng Khaine sẽ không phát hiện ra. Sau khi nhận kiếm, Khaine rất hài lòng với chúng đến nỗi hắn đã thả Isha và Kurnous ngay lập tức, rồi thích thú chơi đùa với những vũ khí mới. Chỉ đến khi Isha và Kurnous đi xa, Khaine mới tìm thấy thanh kiếm giả tạo, nó không có chút thần lực nào.
Khaine gầm lên giận dữ, gọi Vaul là kẻ lừa đảo, dối trá và trộm cắp. Hắn ta ngay lập tức bắt đầu truy tìm Vaul và buộc vị thần thợ rèn phải trả giá, chính thức dẫn đến một cuộc chiến tranh giữa các vị thần, chia rẽ Pantheon. Phe của Khaine và phe của Vaul lao vào cuộc chiến đẫm máu kéo dài. Những chiến công vĩ đại và cả tội ác điên cuồng nhất đã được thực hiện bởi cả hai phe. Vụ việc cũng tác động đến các Eldar ở thế giới vật chất, khiến họ chia phe và đấu đá lẫn nhau tương tự các vị thần mà họ thờ phụng.
Bản thân Asuryan chán nản nhìn cảnh tượng hỗn loạn ấy, ông không bao giờ nghiêng về phía nào, chỉ đứng nhìn cuộc tàn sát một cách bình thản, nhưng rồi dần dần ông cũng cảm thấy hối hận về sự khinh suất của mình khi đã giao Isha và Kurnous cho Khaine. Cuộc nội chiến điên cuồng diễn ra cả ở cõi thần và cõi phàm, khuấy động cả không gian Warp lẫn thế giới vật chất như nhau. Đó dường như là thảm họa không hồi kết có thể hủy diệt tương lai của cả giống loài Eldar.
Với nỗ lực chiến thắng cuộc giao tranh đẫm máu, Vaul cố rèn ra thanh kiếm cuối cùng mà ông đã không thể hoàn thành cho Khaine trước đó, thanh kiếm này vĩ đại nhất trong tất cả, và nó được gọi là Anaris. Với vũ khí mới, Vaul sải bước ra chiến trường đối mặt với Khaine. Đó là một trận đấu kéo dài và đầy gian khổ. Nhưng ngay cả khi có Anaris, Vaul cũng không phải là đối thủ của thần chiến tranh. Khaine hạ gục Vaul, chém vị thần thợ rèn trọng thương rồi trói Vaul vào chính cái đe của ông ta.
Tuy nhiên, con chim ưng Faolchú, một loài mãnh thú chiến đấu cho phe Vaul đã thừa cơ cướp lấy thanh kiếm Anaris và giao nó cho Eldanesh – thủ lĩnh vĩ đại nhất trong số những Eldar phàm trần. Với Anaris trong tay, Eldanesh đã đối đầu với Khaine trong một trận chiến tay đôi không cân sức. Eldanesh rất dũng cảm, nhưng cuối cùng anh ta chỉ là kẻ phàm, không thể là đối thủ tương xứng với Khaine. Xác thịt của Eldanesh bị nghiền nát trong tay vị thần chiến tranh đang giận dữ.
Sau khi sát hại Eldanesh, thần chiến tranh được biết với cái tên Khaela Mensha Khaine, có nghĩa là “Khaine the Bloody-Handed“, bởi tay hắn ta đã vấy máu của vị anh hùng. Asuryan đã chứng kiến quá đủ cảnh tàn sát, ông rất đau lòng và tuyên bố chiến tranh buộc phải kết thúc. Lúc này Khaine cũng đã trả thù xong và đồng ý dừng tay, kết thúc một cuộc nội chiến phi nghĩa của cả thần và người Eldar. Trong thời gian sau đó, không có sự cố nào nghiêm trọng hơn cho đến khi nền văn minh Eldar sụp đổ.
Lưu ý, cuộc chiến nói trên trong thần thoại Eldar cũng được gọi là War in Heaven, tuy nhiên nó chỉ là một sự trùng tên, ngoài ra không có liên quan đến cuộc chiến War in Heaven đã xảy ra ở thời thượng cổ giữa Old Ones và Necron. Về sau, hầu hết các vị thần của Eldar đã bị tiêu diệt khi Chaos God Slaanesh khai sinh, và đó là một trong những chương đen tối nhất của cả Eldar cũng như của cả Thiên hà Milky Way. Chúng ta sẽ tìm hiểu sự kiện này trong phần tiếp theo về Sự Sụp Đổ của Eldar.
4- Sự Sụp Đổ của nền văn minh Eldar
Sau khi gác lại mâu thuẫn nội bộ, người Eldar tiếp tục phát triển vượt bậc, cả về công nghệ Warp, Webway và công nghệ di truyền, chạm đến đỉnh cao mà có lẽ người Necron xưa kia đã từng mơ ước nhưng không có cơ hội đạt được. Đó là sự thịnh vượng của xã hội, sức khỏe và thể chất ổn định của người dân. Eldar lúc này sở hữu sức mạnh quân sự thống trị trong thiên hà, cả con người thời Dark Age of Technology cũng không sánh bằng, họ có thể tôn tạo và hủy diệt các hệ sao dễ như trở bàn tay.
Những thành tựu về công nghệ và văn hóa của Eldar nhanh chóng làm lu mờ bất kỳ chủng tộc nào khác, và họ đã phát triển đến mức có thái độ trịch thượng, tỏ ra coi thường đối với tất cả các nền văn minh còn lại của Thiên hà. Với việc làm chủ Webway, Eldar tiếp tục chiếm một phần lớn Milky Way với tốc độ chóng mặt, bởi họ có thể đến và đi nhanh chóng, tiện lợi, xuất hiện và triển khai quân đội một cách cơ động ở mọi nơi, mọi lúc mà không lệ thuộc vào việc du hành thông qua bước nhảy Warp như loài người.
Eldar sớm tạo ra những công cụ hiện đại giúp họ không cần phải lao động chân tay nữa, mà chỉ dựa vào các cỗ máy tự động để hỗ trợ tất cả các chức năng kinh tế cơ bản, như sản xuất, trồng trọt… ở hiệu suất cao đến không ngờ. Người Eldar ở giai đoạn này đã thịnh vượng đến mức, mọi nhu cầu về vật chất không còn là vấn đề nữa. Những hành tinh của Eldar được gọi là Paradise World – thế giới thiên đường tươi đẹp và phồn vinh, nơi mà họ chỉ cần vui chơi mà không phải lo nghĩ bất kỳ điều gì.
Điều kiện kinh tế như vậy cho phép Eldar có thời gian để khám phá thêm những bí ẩn của vũ trụ. Lúc đó, động lực duy nhất của giống loài Eldar là sự tò mò, họ không ngừng học tập, phát triển bản thân, tìm hiểu những bí mật đã bị giấu kín trong nhiều thiên niên kỷ trước. Ở giai đoạn này, khi một Eldar chết đi, linh hồn của họ sẽ quay về Warp một cách yên bình, bởi lúc ấy không gian Warp chưa phải là nơi thù địch với Eldar, lại còn được bảo hộ bởi vô số thần thánh của chính họ.
Theo các tài liệu chính thống như tiểu thuyết Asurmen: Hand of Asuryan hoặc Throneworld, quy mô của Đế chế Eldar ở thời thịnh trị có thể bao gồm hàng chục nghìn cho đến hàng triệu hệ sao xuyên suốt cả Thiên hà Milky Way, nhưng họ vẫn có thể quản lý lãnh địa rộng lớn ấy một cách vô cùng hiệu quả. Mọi thao tác từ triển khai chiến dịch quân sự, chiếm đóng thuộc địa, cho đến khai thác tài nguyên đều có thể chỉ bằng một cái nhấn nút, những cỗ máy được lập trình sẵn sẽ tự tiến hành.
Tuy nhiên, vì quá sung sướng, người Eldar bắt đầu rơi vào những thói hư tật xấu đến mức sa đọa khủng khiếp, đó là lý do chính sẽ khiến họ phải suy tàn. Ngày lại qua ngày, các Eldar không biết làm gì khác ngoài việc vui chơi giải trí, tìm kiếm các thú vui xác thịt điên cuồng hơn. Giới lãnh đạo Eldar trở nên tự cao tự đại, rồi thói ngạo mạn ấy chuyển thành lòng tham không đáy, họ cho rằng mình xứng đáng được sở hữu nhiều hơn nữa, được trải nghiệm nhiều hơn nữa những lạc thú trên đời.
Eldar cho rằng tất cả những bí mật của vũ trụ là thuộc về họ, để tha hồ khám phá, tất cả những cảm xúc thăng hoa cũng là của họ, để cùng nhau say sưa quên ngày tháng. Rượu chè, thức ngon vật lạ chỉ là chuyện nhỏ, họ muốn sở hữu kiến thức ở tất cả các lĩnh vực, đạt đến mọi cơn cực khoái của thể xác và tinh thần. Thế rồi, người Eldar lập nên các Pleasure Cult – giáo phái sa đọa nhằm trải nghiệm những thú vui vô đạo đức, liên tục thực hiện các hành vi BDSM đến mức tột độ, không thể đong đếm được.
Xã hội Eldar cuối cùng rơi vào tình trạng hỗn loạn toàn diện khi sự dư thừa của họ vượt quá mọi giới hạn mà người ta có thể tưởng tượng được. Huynh đệ tương tàn để giành giật các thú vui, và những kẻ giết người tàn bạo rình rập trên đường phố để truy đuổi nạn nhân, nhằm thỏa mãn những ham muốn mới lạ nhưng thấp hèn. Tình dục là không đủ, họ tìm đến những cảm xúc tăng tiến và trụy lạc bằng cách giết chóc hoặc tra tấn, vì cơn đau và những cảm xúc nhục nhã, ghê tởm cũng có thể trở thành khoái cảm.
Càng khám phá được những thứ mới mẻ và điên dại ấy, người dân Eldar càng cảm thấy mình mau chóng trở nên buồn chán, họ thử vô số cách để đẩy cảm xúc lên cực hạn, như một kẻ nghiện ngày càng cần những liều thuốc mạnh hơn, đủ để kích thích hệ thần kinh đã trơ lỳ trước những khoái cảm thông thường. Lúc này, số ít những thành viên ở tầng lớp cao cấp nhất trong xã hội đã bắt đầu thấy trước hiểm họa, những Farseer thông thái tiên kiến được sự sụp đổ, lời tiên tri về sự hủy diệt đã gần kề…
Không ai biết rõ được hiểm họa tiềm tàng đó là gì, nhưng một số các Eldar tỉnh táo nhất đã lờ mờ cảm nhận được thứ sức mạnh đen tối nào đó đang lớn dần trong Warp, nó ngày càng tích tụ lại thành một khối dày đặc những cảm xúc tiêu cực. Người Eldar càng tha hóa, thế lực tà ác đó càng mạnh lên, nó bắt đầu như có tri giác, phản ánh chính những hành vi mà người Eldar đang làm. Chậm nhưng chắc, thứ quỷ quyệt ấy dần trưởng thành, khi đã đạt đến cực hạn, một Chaos God được sinh ra…
5- Ác thần Slaanesh ra đời trong Warp
Là kết quả trực tiếp từ sự tha hoá đến mức cùng cực của Eldar, vào Thiên niên kỷ thứ 29, một Chaos God mới đã xuất hiện, Slaanesh – The Dark Prince, hắn được hình thành bởi dục vọng và ham muốn vô độ của Eldar. Không một sinh vật nào khác của Warp có sự ra đời dữ dội, hoặc mạnh mẽ và quái dị như Slaanesh. Trên thực tế, sẽ không có ngôn từ nào đủ điên loạn, đủ bệnh hoạn để có thể miêu tả được The Fall – Sự Sụp Đổ của Eldar, kéo theo sự ra đời của một vị thần Hỗn Mang, thảm họa này nằm ngoài khả năng diễn đạt của mọi ngôn ngữ.
Chỉ biết rằng khi Slaanesh hoàn toàn trưởng thành, hắn xuất hiện với một tiếng thét câm lặng, một tiếng thét không lời, đó là tiếng thét tâm linh – Psionic Cry, mọi Eldar trong Milky Way đều cảm nhận được nó, và họ đau đớn đến thấu tâm can. Sự hiện diện của Slaanesh kéo theo làn sóng diệt vong. Phần lớn người Eldar trong bán kính trải rộng hàng ngàn năm ánh sáng tính từ thủ phủ của đế chế Aeldari đã sốc và chết ngay lập tức khi linh hồn của họ bị Slaanesh hút lấy, vĩnh viễn bị giam cầm trong Warp, trở thành nô lệ của vị thần Hỗn Mang này.
Tại khu vực từng là trung tâm của đế chế Eldar giờ đã trở thành Eye of Terror, vùng Warp Rift khổng lồ ở rìa Thiên hà, nằm về phía Tây Bắc của Terra, trong vùng Segmentum Obscurus, còn được biết với cái tên Ocularis Terribus hoặc Anathema Nonplus Ultra. Đó là một lỗ hổng không – thời gian kết nối Warp và thế giới thực, Trong thiên hà Milky Way có nhiều khu vực như vậy, nhưng Eye of Terror là nơi mà năng lượng tiêu cực của cả chủng loài Eldar tập trung lại dày đặc nhất, tiếng thét của Slaanesh xé toạc không gian đã bắt đầu từ đây, nên nó trở thành Warp Rift to nhất.
Cái tên Slaanesh bắt nguồn từ Slaaneth – danh từ trong ngôn ngữ của Chaos, với Slaa có nghĩa là “khoái cảm”, “dục vọng”, “niềm vui”, Neth có nghĩa là “chúa tể”, “chủ nhân” hoặc “hoàng tử”, do đó Slaanesh có nghĩa là Hoàng Tử Dục Vọng. Slaanesh thường xuất hiện trong hình dạng bán nam bán nữ, thân nữ ở nửa bên phải và thân nam ở nửa bên trái, với hai cặp sừng nhô lên từ mái tóc bồng bềnh. Tuy nhiên, hắn có thể hiện diện ở bất kỳ hình thức nào, nam, nữ, lưỡng tính hoặc vô tính.
Ngay sau khi xuất hiện, Slaanesh tàn sát các vị thần cổ xưa của Eldar. Lileath, Asuryan, thậm chí cả Morai-Heg già nua và mù lòa cũng bị Slaanesh sát hại. Khaine, chiến binh hùng mạnh nhất của các vị thần trong Eldar Pantheon đã chiến đấu với Slaanesh giữa không gian Warp và bị hạ gục, cuối cùng Khaine bị Slaanesh đánh vỡ thành hàng triệu mảnh rải rác khắp nơi, về sau được gọi là các Avatar of Khaine. Như vậy, Khaine có thể được xem là không chết hẳn, nhưng cũng đã bị phân tán tất cả sức mạnh.
Chỉ có hai vị thần thực sự toàn mạng là Cegorach và Isha. Bản thân Cegorach là hiện thân của kịch nghệ, sự lừa bịp và được biết đến là có tính cách vô cùng nham hiểm, đầy thù hận và bí ẩn, thích bày trò chế giễu, trêu ngươi kẻ khác. Truyền thuyết cho rằng Cegorach sống sót vì bản tính giễu cợt đã khiến ông may mắn tránh xa sự thối nát và suy đồi mà Slaanesh chi phối, hay đơn giản hơn là trong khi Slaanesh bận đấu với Khaine, Cegorach đã trốn thoát vào Webway – không gian tách biệt với cả Warp và Materium mà Slaanesh không trực tiếp tác động được.
Về Isha – nữ thần được xem là tổ mẫu của người Eldar, thì bà rơi vào một tình huống thậm chí còn cay đắng hơn cả Khaine. Isha phải chứng kiến chồng mình bị sát hại và Slaanesh không giết bà chỉ vì hắn muốn giam cầm Isha làm của riêng, như một chiến lợi phẩm. Khi Isha đau khổ và kêu cứu, vị thần Hỗn Mang khác là Nurgle đã đáp lời. Vụ việc dẫn đến một trận chiến kinh thiên khác ở ngay trong Warp, khi mà thần dịch bệnh Nurgle tiến công vào lãnh địa của Slaanesh và đánh bại hắn, cướp lấy Isha về khu vườn hôi thối của mình.
Nurgle rất thích Isha, mặc dù một nữ thần của Sự Sống và một thần Hỗn Mang của Sự Chết quả thật là cặp đôi bất đắc dĩ, nhưng thực sự thì Nurgle yêu quý Isha hơn bất kỳ thứ gì mà hắn từng có được. Tuy nhiên, đó lại là câu chuyện buồn khác cho Isha, bởi tình yêu của Nurgle cũng rất khó đoán. Sau khi biết được Isha có năng lực hồi phục mạnh mẽ, hắn nhốt bà trong trong lồng và dùng bà làm một vật thí nghiệm sống, để thử hết loại chất độc này tới bệnh dịch nọ. Giai thoại này có lẽ chúng ta sẽ tìm hiểu thêm trong một chủ đề khác.
Lại nói về những người Eldar thông thái và ôn hòa, vốn không rơi vào ham muốn vô độ như phần còn lại của giống loài, thì họ đã sớm đoàn kết lại cùng nhau, tìm cách rời khỏi thủ phủ của đế chế trước khi Slaanesh được sinh ra, sống ở các thế giới xa xôi như Exodite. Một số lượng lớn các Eldar khác tránh xa sự suy đồi của thủ phủ Aeldari vì vô tình chu du trong các Craftworld, một số khác lại định cư trong Webway, nhờ vậy mà may mắn thoát khỏi cái chết trong gang tấc vì họ không phải trực tiếp gánh chịu tiếng thét tâm linh của Slaanesh.
Sau khi thảm họa xảy ra, những người Eldar còn sống gọi vị thần quỷ quyệt mà chính sự sa đọa của họ đã sinh ra là Sai’lanthresh, tức “She Who Thirsts”, hoặc một số cái tên khác mà các tác giả của Games Workshop được truyền cảm hứng từ truyện kinh dị thuộc thể loại Cosmic Horror của H. P. Lovecraft như She Who Is Not Named, The Great Enemy, The Great Serpent… Kể từ lúc này, nền văn minh Eldar đã sụp đổ hoàn toàn và giống loài họ bị chia rẽ thành các phe phái khác nhau.
6- Eldar: Một chủng loài bị chia rẽ
Sau sự sụp đổ của một đế chế Aeldari thống nhất, phần lớn người Eldar đã thiệt mạng khi Slaanesh được sinh ra, giềng mối của dân tộc họ bị đứt gãy, truyền thống và văn hóa đã mai một, cả chủng tộc bị chia thành những nhóm với lối sống và quan điểm khác biệt. Những kẻ cao quý và thông thái còn sót lại cố gắng dẫn dắt người dân tránh khỏi con đường đen tối trước kia của tổ tiên, trong khi một số khác tiếp tục thói quen sa đọa nhưng nằm ngoài sự kiểm soát trực tiếp của Slaanesh.
Cho đến thời điểm hiện tại, thì được biết chủng tộc Eldar đã chia ra thành ít nhất 6 phe phái hoặc phân nhóm khác nhau là: Craftworld Eldar, Exodite, Dark Eldar, Ynnead, Eldar Corsair và Harlequin. Họ tồn tại với những mục tiêu, lý tưởng riêng biệt, số lượng, sức mạnh và quan hệ với Imperium cũng có thể khác biệt. Bài viết này chỉ đưa ra những thông tin tổng quan, vì mỗi phe phái được nhắc đến dưới đây đều có đủ nội dung chi tiết để được triển khai thành một chủ đề riêng.
Craftworld Eldar
Còn gọi là các Asuryani, họ sống trong Craftworld – những phức hợp kiến trúc có kích cỡ sánh ngang với một hành tinh, ngay cả Craftworld nhỏ nhất cũng to hơn bất kỳ tàu chiến hay trạm không gian nào của Imperium. Chúng là một hệ sinh thái tự cung tự cấp có thể đáp ứng cho nhiều tỷ cá thể Eldar hoặc hơn. Trước Sự Sụp Đổ, nhiều Craftworld rời khỏi quê nhà để thực hiện nhiệm vụ giao thương, mua bán xuyên thiên hà. Những chuyến đi của họ có thể kéo dài nhiều thế kỷ và cách xa quê nhà hàng nghìn năm ánh sáng, điều đó lại khiến họ may mắn giữ được các giá trị tốt đẹp.
Vì ở xa thủ phủ, đa phần các Eldar trên Craftworld không bị cuốn vào vòng xoáy tội lỗi đang tha hóa chủng tộc, nhờ giữ được truyền thống vốn có, phát triển ý thức độc lập và tự lực tự cường, lại được cấu trúc Wraithbone của Craftworld bảo vệ trong một tường chắn tâm linh, họ đã sống sót. Thường thì khoảng 300 đến 400 năm, họ mới cần quay về nhà một lần, mỗi khi trở lại, các Eldar tha hương này chứng kiến dân tộc mình tha hóa khủng khiếp. Quá thất vọng, Craftworld Eldar giải cứu những ai có thể, sau đó trốn chạy khỏi thủ phủ của đế chế Aeldari trước khi Slaanesh ra đời.
Một Craftworld là lực lượng thực sự mạnh mẽ, nó được duy trì bởi một lõi gọi là Infinity Circuit, thứ được mô tả là “ma trận” này cung cấp năng lượng cho toàn Craftworld với các phản ứng hữu cơ được kích thích bằng sức mạnh tâm linh. Nhưng nó không đơn thuần là trái tim của toàn bộ Craftworld theo cách hiểu đơn giản nhất, mà còn đóng vai trò là một giếng linh hồn, nơi hấp thụ và cất giữ, bảo vệ toàn vẹn cho mọi linh hồn của các Eldar thuộc về Craftworld đó trong trường tinh thần lực. Khi chết, nếu linh hồn của một Eldar không được Spirit Stone giữ lại và tích hợp vào Infinity Circuit, nó sẽ bị Slaanesh nuốt chửng.
Đó chính là lý do mà các Asuryani sẽ chiến đấu đến hơi thở cuối cùng để bảo vệ Craftworld của họ, đồng nghĩa với bảo vệ di sản và linh hồn của tổ tiên mình. Quân lực của mỗi Craftworld đều rất mạnh, đủ để xâm chiếm hoặc bảo vệ cả một hệ sao nếu cần. Mặc dù ngày nay Craftworld Eldar di chuyển giữa không gian, hạn chế giao tranh để tránh bị tổn thất vô nghĩa, thì dưới sự lãnh đạo của các Farseer, Autarch hoặc Exarch, họ vẫn có thể triển khai hàng tỷ binh lính, bao gồm các Aspect Warrior cho tới Wraithbone-Construct như Wraithknight, Wraithlord, Wraithguard, hoặc các Titan hùng mạnh trong trường hợp không còn lựa chọn nào khác ngoài chiến tranh.
Rất khó để Nhân loại hình dung được một Craftworld to lớn như thế nào, bởi họ không có bất kỳ phương tiện hay trạm không gian nào đủ kỳ vĩ để sánh ngang với nó. Craftworld là một tổ hợp bao gồm nhiều thành phố với các pháo đài khổng lồ tách biệt và hạm đội tàu không gian của riêng chúng. Thậm chí người Eldar có thể tái tạo môi trường sống, với những khu dân cư, cánh rừng bạt ngàn và hồ nước ngay bên trong Craftworld, một hệ sinh thái hoàn chỉnh và cân bằng, rộng lớn, sạch sẽ và trong lành hơn bất kỳ hành tinh nào của Imperium.
Mặc dù hầu hết thời gian các Craftworld di chuyển với tốc độ chậm hơn tốc độ ánh sáng, nhưng mỗi Craftworld đều có sở hữu các cổng liên kết đến hệ thống Webway, khi cần có thể cho phép các hạm đội hùng mạnh của nó dịch chuyển tức thời bằng cách đi qua các đường hầm xuyên Warp ấy để triển khai binh lực, nhằm hỗ trợ cho những hành tinh của Exodite hoặc Craftworld anh em khác trong trường hợp có chiến tranh, hoặc khi phải đối đầu với một hiểm họa chung nào đó.
Mỗi cư dân của Craftworld đều có thể là chiến binh, họ buộc phải lấy chất lượng bù số lượng, vì loài Eldar đang chết dần do dân số già. Eldar sinh nở rất khó khăn và mất thời gian, nên đó cũng là lý do họ phải tránh xung đột để giảm thiểu thiệt hại nhân mạng. Ngày nay có hàng chục Craftworld được ghi nhận tên gọi cụ thể, một số Craftworld lớn nhất và mạnh nhất có thể kể đến như: Alaitoc, Biel-tan, Iyanden, Saim-Hann, Ulthwé, Altansar, Iybraesil, Il-Kaithe, Lugganath, Mymeara, Yme-Loc…
Alaitoc là Craftworld nổi tiếng với lực lượng Ranger thiện nghệ và kỷ luật khắc nghiệt nhất, họ nghiêm túc tu luyện để chống lại sự cám dỗ của Slaanesh. Trong khi đó Biel-tan sở hữu binh lực mạnh mẽ, họ có nhiều Aspect Warrior hơn các Craftworld khác. Iyanden từng đông đúc và thịnh vượng nhất, nhưng đã chịu rất nhiều thiệt hại sau khi bị tấn công bởi Tyranid lẫn lực lượng Chaos, nếu không được hỗ trợ bởi tất cả những Faction khác của Eldar, bao gồm Dark Eldar, Corsairs, Harlequins, Exodites và Ynnari, thì họ có thể đã bị tuyệt diệt.
Ulthwé Craftworld cũng là một trường hợp dị biệt, họ đã bị cuốn vào lực hấp dẫn của Eye of Terror khi nó hình thành trong quá trình Slaanesh thức tỉnh và hiện đang có quỹ đạo quay quanh Warp Rift khủng khiếp này. Việc ở gần Eye of Terror khiến Ulthwé bị tấn công liên tục bởi quỷ dữ của cõi Hỗn Mang, nhưng điều đó cũng tôi luyện các chiến binh của Ulthwé và họ có những Psyker mạnh mẽ nhất. Ulthwé được dẫn dắt bởi Eldrad Ulthran, anh ta có lẽ là Psyker tài năng nhất trong số các Eldar, tầm nhìn xa đáng kinh ngạc của vị Farseer này đã cứu sống rất nhiều Eldar và truyền cảm hứng cho cả giống loài.
Exodite Eldar
Exodite là các Eldar đã rời bỏ thế giới quê hương của họ trước Sự Sụp Đổ, nhờ sự dẫn dắt của nhiều cá thể thông thái, họ quyết tâm từ bỏ lối sống vô độ và nhờ vậy mà thoát khỏi bàn tay của Slaanesh. Những Exodite định cư ở các hành tinh xa xôi để tránh xa sự suy đồi ngày càng tăng tiến của đế chế Aeldari xưa cũ, cho đến nay họ vẫn duy trì một cuộc sống hạnh phúc, lành mạnh và gần gũi với tự nhiên.
Exodite cố tình hạ cánh xuống những hành tinh hoang dã, lạc hậu, nơi cuộc sống sẽ khó khăn. Vì trước đó họ đã chứng kiến và thấy được bản chất của sự sung sướng, dư thừa sẽ gây ra tật xấu, nên tất cả Exodite đều thống nhất với ý chí mạnh mẽ là sẽ tự kiềm chế bản thân, tránh xa sự giàu sang và ngạo mạn để tồn tại một cách có ý nghĩa hơn. Đó chính là cách mà xã hội Exodite được hình thành.
Exodite được chia thành các thị tộc, mỗi thị tộc do một chiến binh ưu tú lãnh đạo, họ sống thích ứng với điều kiện tự nhiên của hành tinh mình đang ở, thậm chí duy trì các hoạt động săn bắn, trồng trọt, chăn nuôi bằng tay chân để có thể cảm nhận cuộc sống ý nghĩa và hạnh phúc. Ngày nay, hầu hết các thế giới của Exodite tồn tại ở trạng thái mộc mạc như vậy, thoạt nhìn dường như ở thời tiền công nghiệp.
Nói như vậy không có nghĩa là Exodite thực sự lạc hậu, họ vẫn nắm giữ di sản công nghệ mạnh mẽ đủ để trở nên hiện đại, nhưng đã cố ý chọn một cuộc sống yên bình và giản đơn. Vì lý do này, hầu hết các hành tinh của Exodite không có quân lực mạnh, một số Craftworld rất thân thiện với Exodite và sẽ gửi quân để hỗ trợ khi cần, ví dụ như Biel-Tan đã giúp các Exodite ở hành tinh Three Sisters thoát khỏi thế lực Chaos.
Các Exodite cũng có một thứ tương tự như Infinity Circuit của Craftworld, đó là các World Spirit, được chứa trong World Shrine, những ngôi đền linh thiêng trên hành tinh mà Exodite đang sinh sống. World Spirit là một thực thể có tri giác, là tổng hòa từ tinh thần lực của linh hồn các Exodite đã chết, nó như một trái tim của hành tinh và giúp che chở linh hồn các Exodite khỏi bị Slaanesh nuốt chửng.
Rất dễ để nhận diện các Exodite, họ có phục trang đơn giản, ít hào nhoáng hơn so với Craftworld Eldar và rất hay cưỡi các loài thú bản địa thay vì phương tiện cơ giới, một số loài có hình dạng giống khủng long được Exodite yêu thích và thuần chủng làm vật cưỡi, ví dụ như Megadon, Pterosaur, Megasaur, Brachiosaur… tất cả đều có thể được vũ trang vũ khí laser là các loại Prism Weapon nếu cần.
Dark Eldar
Dark Eldar còn được gọi là Drukhari và họ lại là một câu chuyện hoàn toàn khác so với Asuryani hay Exodite. Khi Slaanesh thức tỉnh và nuốt chửng vô số sinh linh Eldar ở Milky Way, thì lúc đó một bộ phận các Eldar định cư trong Webway đã thoát nạn, bởi Webway tách biệt với cả thế giới vật chất và thế giới tâm linh của Warp, đó là một không gian độc lập với chi chít các đường dẫn phức tạp như mê cung, là di sản và tàn tích gợi nhớ về một thời huy hoàng của các Old Ones trước thời War in Heaven.
Những kẻ may mắn sống sót trong Webway ấy chính là tổ tiên của Dark Eldar, họ lập các giáo phái gọi chung là Kabal, Coven hoặc Witch-Cult, tập trung chủ yếu ở thủ phủ Commorragh, dưới sự lãnh đạo của Archon Asdrubael Vect. Từ trước cả Sự Sụp Đổ, Commorragh đã là thiên đường của các Pleasure Cult, cư dân Eldar tại đây không hề ăn năn hối lỗi vì những hành vi vô độ, thậm chí việc may mắn thoát khỏi Slaanesh chỉ càng khiến họ ngạo mạn hơn và tiếp tục lối sống sa đọa suốt hàng chục nghìn năm.
Tuy nhiên, việc ở trong Webway chỉ giúp Dark Eldar tránh né cái chết tức thì, bởi Slaanesh dù không thể trực tiếp giết chết Dark Eldar, hắn vẫn có thể chiếm lấy linh hồn khi họ chết đi. Vì Slaanesh hình thành do cảm xúc tiêu cực và hành vi sai trái của người Eldar, nên hắn có liên kết tâm linh với mọi cá thể Eldar bất kể là họ ở đâu đi nữa. Đối với Slaanesh, mọi linh hồn Eldar đều là “tài sản” của hắn, và hắn sẽ thu thập họ không sớm thì muộn. Thế nhưng, cuối cùng các Dark Eldar cũng tìm ra một cách để “câu giờ”.
Khi nghiên cứu về vị thần Hỗn Mang này, Dark Eldar biết hắn cắn nuốt cả khoái cảm và nỗi đau cũng như tất cả các cảm xúc tăng tiến khác. Nếu Dark Eldar tiếp tục hấp thụ và cung cấp những cảm xúc đó cho Slaanesh, hắn sẽ tha cho họ. Như vậy, số phận của Dark Eldar như một kẻ cố tránh né con mãnh thú đang đuổi sát phía sau, họ phải liên tục vứt lại những thứ gì đó khiến nó phân tâm và có thêm thời gian để lẩn trốn. Để làm được điều này, Dark Eldar đưa ra một giải pháp: tra tấn và hấp thụ nỗi đau từ kẻ khác.
Thú vị ở chỗ, phương pháp đó lại khá phù hợp với lối sống sa đọa của Dark Eldar, họ không ngừng tìm kiếm nô lệ để phục vụ cho những trò bệnh hoạn, như tra tấn, cắt xẻo hoặc bạo dâm, nuôi dưỡng những cảm xúc mà Slaanesh thèm khát, họ đày đọa linh hồn kẻ khác để vị thần Hỗn Mang sẽ tha cho linh hồn của chính mình. Đó là lý do mà Dark Eldar thường xuyên đi cướp bóc ở thế giới thực để bắt nô lệ, thông thường là đánh vào các hành tinh của Imperium có công nghệ lạc hậu và binh lực phòng thủ yếu ớt.
Các Kabal (những tổ chức quân sự tự trị) và Wych-Cult (những tổ chức tuyển mộ và đào tạo đấu sĩ) của Dark Eldar liên tục thực hiện những cuộc càn quét và cướp bóc ở Materium, mang nô lệ về Commorragh để thực hiện các hành vi ghê rợn và tàn nhẫn, vừa để tạo ra nhiều nỗi đau để cống nạp cho Slaanesh, lại vừa thỏa mãn khao khát đen tối của bản thân. Khi bị thương, cần cường hóa cơ thể, hoặc thậm chí là hồi sinh khi thiệt mạng, họ sẽ đến gặp các Haemonculi. Các Coven của Haemonculi cũng sẽ đảm bảo rằng những nô lệ mà đồng loại của họ đã đổ máu để bắt về sẽ được sử dụng một cách tối ưu nhất.
Khi đã bàn đến các phương pháp gây ra nỗi đau, thì các Haemonculi của Dark Eldar là bậc thầy. Họ tập hợp lại thành các Coven, tuyên bố rằng thao túng sự đau đớn là môn nghệ thuật vĩ đại nhất. Họ hạnh phúc khi có thể tạo ra dàn hợp xướng của vô số những nô lệ đang la hét và rên rỉ, tỏ ra thích thú với mọi khía cạnh của sự khổ đau, giày vò và tuyệt vọng khi dùng dao kéo, độc tố và chất kích thích để hành hạ các nạn nhân, những kẻ sống mà không bằng chết. Các nô lệ phải sống, sống càng lâu càng tốt và đau đớn càng nhiều càng tốt theo ý của những Haemonculi.
Ngoài việc phải liên tục cống nạp các cảm xúc, Dark Eldar cũng phải kiềm chế năng lực tâm linh của họ để tránh sự chú ý của Slaanesh. Đó là lý do gần như chúng ta không bao giờ nghe tới việc Dark Eldar sử dụng Psyker, và hành vi ứng dụng năng lực tâm linh hoàn toàn bị cấm đoán ở thủ phủ Commorragh. Việc hạn chế tinh thần lực là điểm trừ lớn cho giống loài có năng lực tâm linh phát triển như Eldar, thế nên các Dark Eldar buộc phải phát huy công nghệ và thể lực để bù vào thiếu sót đó.
Hầu hết các Dark Eldar có tuổi thọ rất cao, không chỉ nhờ vào công nghệ sinh học và di truyền, mà còn được trẻ hóa cả linh hồn và thể xác khi họ tra tấn và hấp thụ sinh khí của nạn nhân. Như vậy, miễn là còn nô lệ để cắn nuốt, các Dark Eldar sẽ không lo bị Slaanesh bắt hồn. Điều đáng sợ ở Dark Eldar là họ không chỉ giết chóc và tra tấn để tránh né Slaanesh, mà cũng làm điều đó vì thú vui và sự biến thái của ban thân. Thực sự mà nói, nếu so sánh Dark Eldar với lũ quỷ của Slaanesh, chưa chắc ai là kẻ tồi tệ hơn ai đâu nhé.
Dark Eldar là một phe phái độc ác, tàn nhẫn và không còn bất kỳ giá trị đạo đức nào, việc rơi vào tay chúng sẽ là thảm họa đối với cư dân Imperium. Đa phần quan chức lãnh đạo Imperium cực kỳ căm hận Dark Eldar vì sự tàn độc của chúng, ví dụ tiêu biểu nhất có thể kể đến là Primarch Vulkan, thế giới nơi ông sinh sống lúc bé thường xuyên bị đạo tặc Dark Eldar cướp bóc và bắt làm nô lệ, chiến công của ông khi trưởng thành chính là đánh bại cuộc càn quét của hàng trăm Dark Eldar chỉ với một cặp búa rèn.
The Harlequin
Các Harlequin là một nhóm độc đáo của chủng tộc Eldar, vừa là những chiến minh mạnh mẽ vừa là những nghệ sĩ tài năng. Họ tồn tại bên ngoài xã hội Eldar và không trung thành với bất kỳ Craftworld, Kabal, hoặc hình thức quyền lực nào khác. Harlequin chỉ có niềm tin tuyệt đối vào Cegorach – The Laughing God, vị thần gian xảo của kịch nghệ, sự lừa bịp và những trò đùa cợt.
Nguồn gốc của các Harlequin có thể bắt đầu từ trước khi đế chế của Eldar sụp đổ, họ xuất hiện trong bối cảnh đạo đức ngày càng suy đồi của chủng tộc, khi người Eldar bắt đầu đi theo chủ nghĩa khoái lạc và quên đi những truyền thống vốn có. Lúc này các Harlequin thường diễn những vũ điệu hoặc vở kịch để nhắc nhở về những giá trị mà tộc nhân của mình đã ruồng bỏ trong quá khứ.
Tuy nhiên, không phải ai cũng ủng hộ hành vi đó của Harlequin, những vở diễn của họ đã châm biếm không ít kẻ khác – những kẻ đầy quyền lực đang đắm mình trong sự khoái lạc và đồi trụy. Nhiều khán giả trở nên thù địch, khiến chính các Harlequin phải học cách để bảo vệ bản thân mình, đó là lý do vì sao mà mỗi thành viên Harlequin đều có kỹ năng chiến đấu phi thường.
Trong sự sụp đổ của Eldar, Thần Cười Cegorach đã tìm cách thoát khỏi sự hủy diệt do Slaanesh gây ra. Nhờ vậy mà các tín đồ của Cegorach là Harlequin cũng được ẩn thân an toàn trong Webway và sống sót sau thảm họa một cách nguyên vẹn. Họ đã ở yên nhiều năm trong Webway, xây dựng lực lượng chờ ngày phản công lại Slaanesh một cách mạnh mẽ nhất.
Không có Eldar nào được sinh ra đã là Harlequin, tất cả họ đều được tuyển mộ trong xã hội Eldar bởi các Solitaire – những kẻ bí ẩn nhất trong số các Harlequin, đi tìm những Eldar có đủ năng lực ở mọi phe phái khác. Ứng viên mới có thể đến từ Craftworld, Dark Eldar hoặc kể cả Exodite. Mọi nền văn hóa riêng biệt của Eldar đều có những câu chuyện kỳ lạ và bí ẩn liên quan đến Harlequin, cũng như những lời đồn thổi về cách mà thần Cegorach chọn lựa tín đồ của mình, đó vẫn là một bí ẩn mà người ngoài không rõ.
Dù trở thành Harlequin bằng cách nào đi nữa, nó có nghĩa là một Eldar sẽ phải xóa bỏ tất cả những gì đã có trước đó bao gồm mối quan hệ bạn bè, gia đình và mục đích của họ, mọi khía cạnh của danh tính cũ sẽ bị xóa sạch. Kể từ đó, một Harlequin chỉ phụng sự một trong các nhóm Light, Twilight hoặc Dark Troupe và đảm nhận danh tính khác theo sự chỉ đạo từ Trưởng nhóm, tức Troupe Master của họ.
Harlequin có thể di chuyển khắp thiên hà bằng cách đi qua Webway. Tương truyền rằng Thần Cười Cegorach là thực thể duy nhất biết mọi con đường trong không gian Webway, vì vậy các đồ đệ của ông ta cũng có thể thoắt ẩn thoắt hiện, họ dễ dàng xuất hiện mọi lúc mọi nơi và biến mất không ai hay biết, sẵn sàng phục kích kẻ thù và hỗ trợ đồng loại của Craftworld nếu điều đó phục vụ cho mục đích lớn hơn.
Harlequin không có lãnh đạo chính thức, là một tập thể gồm những thành viên cùng chí hướng, mỗi người trong số họ đều nhận thức sâu sắc về vai trò của mình, tất cả tập trung lại thành những Masque (Đoàn Hóa Trang) lớn, họ tự xem mình là nhóm những nghệ sĩ, hoặc ca đoàn, kịch đoàn tôn thờ Cegorach, biểu diễn giữa thiên hà như một nhà hát khổng lồ, nơi họ tiếp tục kể về lý tưởng của mình qua các buổi nhạc kịch cũng như chiến trận.
The Ynnari
Các Ynnari còn được gọi là The Reborn, là một nhóm các Eldar mới thành lập, họ tôn thờ một vị tân thần của chủng tộc là Ynnead – vị thần của Cái Chết trong tín ngưỡng Eldar. Các Ynnari tin rằng chủng tộc của họ có thể được giải thoát khỏi sự ràng buộc với Slaanesh bằng cách làm Ynnead thức tỉnh hoàn toàn. Lúc đó, mỗi khi chết đi, linh hồn của họ sẽ trở về với sự bảo bọc trọn vẹn của Ynnead thay vì rơi vào cạm bẫy của Slaanesh.
Được lãnh đạo bởi Yvraine – Sứ Giả của Ynnead, các Ynnari có thành phần rất phong phú, bao gồm Eldar từ Craftworld, các nhóm Hải Tặc, thậm chí các Dark Eldar từ Commorragh hay thành viên Harlequin cũng có thể cải đạo và trở thành tín đồ dưới lá cờ của Ynnari. Họ cực kỳ tham vọng, ngoài việc đẩy lùi Slaanesh, Yvraine còn muốn giúp chủng tộc của mình trở lại thời hoàng kim trước khi Sự Sụp Đổ xảy ra.
Tất nhiên, một thủ lĩnh mới nổi như Yvraine không được những lãnh đạo thế hệ trước tin tưởng, họ cho rằng cô quá tham vọng và có thể khiến giống loài bị diệt vong khi khiến Slaanesh chú ý. Vị thần Hỗn Mang hiện tại đưa quân theo sát gót bất cứ nơi đâu các Ynnari đặt chân đến. Tất nhiên, phản ứng của Slaanesh cho thấy hắn cũng có quan tâm tới sự trỗi dậy của Thần Chết Ynnead.
Để có thể hoàn thành mục tiêu của mình, Yvraine và các tín đồ phải thu thập đủ các thanh kiếm thần được gọi là Croneswords of Morai-Heg, gồm năm thanh kiếm, theo truyền thuyết chúng được chạm khắc từ xương ngón tay bị đứt rời của Nữ thần Morai-Heg – cổ thần chi phối linh hồn và số phận người Aeldari. Khi một nghi thức bí mật được thực hiện với cả năm linh vật đó, Ynnead sẽ thực sự thức tỉnh.
Các giai thoại của Eldar kể rằng Morai-Heg đã hy sinh một bàn tay khi bà tìm kiếm sự thông thái đang chảy trong huyết quản của chính mình, bằng cách lừa thần Khaine chặt đứt nó. Khi Khaine làm như vậy, Morai-Heg uống dòng máu chảy ra và đồng hóa kiến thức có sẵn trong đó. Thần Vaul thấy vậy liền thu thập bàn tay bị đứt lìa ấy và chạm khắc xương của năm ngón tay thành năm thanh Cronesword.
Bốn trong số năm thanh Cronesword đã được biết bao gồm: Kha-vir: The Sword of Sorrow do chính Yvraine giữ; Asu-var: The Sword of Silent Screams do Visarch – tức Dire Avenger Exarch của Craftworld Biel-Tan sử dụng; The Spear of Twillight do Hoàng tử Yriel của Craftworld Iyanden giữ; Vilith-zhar, the Sword of Souls do Yncarne – Avatar của Ynnead hiện đang dùng làm vũ khí cá nhân.
Theo truyền thuyết, nếu năm thanh Cronesword được sử dụng bởi đúng người, chúng sẽ cho họ quyền can thiệp vào sự sống và cái chết. Vào cuối Thiên niên kỷ 41, Yvraine và các Ynnari đã tìm thấy bốn trong số năm Cronesword như đã nói ở trên. Thanh Cronesword thứ năm hiện chưa biết tên và nó được con Greater Daemon khủng khiếp là Keeper of Secrets Shalaxi Helbane giữ trong cung điện của Slaanesh.
Con Greater Daemon đó mạnh đến mức cả 6 chiến binh ưu tú của chủng loài Eldar là Phoenix Lord Jain Zar, Queen of Knives Lelith Hesperax, Yvraine, Visarch, một Solitaire của phe Harlequin và cả Yncarne cùng hợp sức cũng chỉ đánh bại được một phân thân của nó. Cho đến nay họ chưa có phương án nào để vào cung điện của Slaanesh lấy được thanh Cronesword thứ năm mà có thể toàn mạng trở ra.
Eldar Corsair
Eldar Corsair hay Anhrathe là những nhóm đạo tặc, chúng là những kẻ bị ruồng bỏ, vất vưởng rày đây mai đó, xuất thân có thể là những thành viên của Craftworld, nhưng không chịu nổi các quy luật nghiêm minh và khắc nghiệt của xã hội Asuryani nên đã trốn thoát và sống một cách tự do, rồi tập hợp lại cùng nhau thành các băng nhóm cướp bóc để sống qua ngày.
Đúng như tến gọi của chúng, Eldar Corsair là lũ cướp, mối đe dọa thường trực đối với các tàu buôn của nhân loại, mặc dù vậy chúng rất hiếm khi dám tấn công một hạm đội lớn của Imperium. Có rất nhiều băng nhóm được gọi là Eldar Corsair hoạt động rải rác khắp thiên hà, và tất cả chúng đều là những kẻ tàn bạo và nguy hiểm, sẵn sàng sát hại người vô tội.
Hầu hết các thành viên của Eldar Corsair là người trẻ tuổi và thích phiêu lưu, những kẻ mà cuối cùng sẽ trở về ngôi nhà Craftworld của họ khi đã có tuổi và chín chắn hơn, trở nên khôn ngoan và được tôi luyện bởi chiến tranh, một số thành viên của băng đạo tặc sẽ tự nhận thức được rằng họ phải đi theo con đường chiến binh đầy danh dự mà các Aspect Warrior đã theo đuổi.
Tuy nhiên, cũng có những người trong số họ hoàn toàn chấp nhận cuộc sống của những kẻ man rợ và rơi vào tình trạng tâm lý bất ổn, trở nên khát máu và loạn thần hơn bao giờ hết, lúc đó chúng chỉ muốn thỏa mãn những cảm xúc đen tối nhất. Cuối cùng, những Eldar Corsair đó sẽ tìm đến lãnh địa của Dark Eldar, để rồi gia nhập một trong các Kabal tàn bạo ở thành phố tội lỗi Commorragh.
Về chiến thuật, do có lực lượng mỏng, hoạt động theo các nhóm nhỏ, Eldar Corsair tối ưu hóa tốc độ và tính bất ngờ hơn là hỏa lực và giáp trụ. Họ vận hành các phương tiện nhẹ, linh hoạt như Jetbike hoặc tàu nhỏ như Falcon và Hornet… nên không được trang bị tốt cho các chiến dịch kéo dài. Đột kích thần tốc luôn là phương án thường gặp, bởi họ không muốn bị sa lầy trong một cuộc giao tranh dai dẳng.
Đôi khi các băng nhóm Eldar Corsair giữ quan hệ đồng minh với cả Craftworld hoặc Exodite để có thể được hỗ trợ nhiều hơn về khí tài hoặc lương thực. Họ cũng có thể làm lính đánh thuê cho bất kỳ phe nào có thể trả công hậu hĩnh, kể cả Dark Eldar và Imperium. Tuy nhiên, vấn đề của Eldar Corsair là thiếu sự trung thành, luôn tư lợi khi có cơ hội và sẵn sàng đâm sau lưng đồng minh.
7- Bản chất và cơ chế sinh học của Eldar
Những mô tả đầu tiên về Eldar đã xuất hiện trong Warhammer 40,000: Rogue Trader, tức Rule Book First Edition, Eldar trông rất giống con người, mặc dù vậy họ thường cao và mảnh mai hơn, với các đặc điểm ngoại quan sắc nét, sống mũi cao, khuôn mặt thon gọn và đôi tai nhọn đặc trưng, tương tự như loài Elves trong nhiều thiên sử thi hoặc tiểu thuyết khác từng nhắc đến Tiên Tộc nói chung. Như đã nói ở trên Eldar được truyền cảm hứng từ Elves của J. R. R. Tolkien và có hình thể khá tương đồng.
Eldar sống rất lâu theo tiêu chuẩn của con người, hầu hết có tuổi thọ hơn một nghìn năm trừ khi bị chết vì tai nạn, chiến tranh hoặc bệnh tật. Khác biệt lớn nhất có lẽ chính là ở bản chất của Eldar, họ là một chủng loài tâm linh, mỗi cá thể trong số họ đều là Psyker giàu tiềm năng. Các Eldar có tinh thần lực càng mạnh, thì cũng thông thái và sống lâu. Ví dụ các Seer của Eldar có thể sống tới vài nghìn năm và nhờ vậy họ cũng có thời gian để nghiên cứu, am hiểu rất nhiều lĩnh vực.
Khác với loài người ở chỗ Psyker của nhân loại là một hình thái đột biến, trong nhiều người bình thường mới xuất hiện một Psyker. Còn Eldar thì ngược lại, tất cả họ khi sinh ra đã có năng lực tâm linh. Điều này cũng khiến Eldar trở nên khác biệt hoàn toàn với Necron – vốn là một chủng loài Non-Psyker, tức trong xã hội Necron không có ai mang tinh thần lực và hoàn toàn không liên hệ với Warp, mặc dù họ không phải là Blank – vốn cũng làm một dạng gene hiếm của nhân loại.
Lý do là các Old Ones sử dụng công nghệ sinh học và công nghệ Warpcraft để tạo ra Eldar một cách có chủ đích, nhằm tối ưu hóa năng lực tâm linh, đây là nỗ lực để khắc chế Necron trong War in Heaven. Nếu loài Old Ones không quá lạm dụng năng lượng Warp và dẫn đến tự sụp đổ, thì rất khó nói là liệu Necron có thể trụ được trước Eldar và Krork trong một cuộc chiến lâu dài hơn hay không. Vì từng có một khoảng thời gian, sự kết hợp của Eldar và Krork đã chống lại Necron rất hiệu quả.
Vì công nghệ gene của Old Ones rất tân tiến, nên thể chất của Eldar vô cùng mạnh mẽ, tất cả họ đều là những sinh vật khỏe mạnh, đẹp và quyến rũ, cả nam và nữ giới đều có thể xem là rất hấp dẫn, vượt xa tiêu chuẩn của nhân loại. Họ di chuyển một cách duyên dáng, đầy mê hoặc, quá trình trao đổi chất rất nhanh và hiệu suất cao kết hợp với hệ tim mạch, các giác quan và hệ thần kinh ưu việt, giúp họ có tốc độ và sự chính xác mà con người không thể nào đạt được.
Có thể nói, chỉ thần thái và cử chỉ của Eldar cũng có thể khiến loài người mê muội và khao khát, đó là vì khả năng khơi gợi và truyền tải xúc cảm của Eldar rất cao. Tất nhiên, đó là con dao hai lưỡi, vì Eldar cảm thụ các xúc cảm thông thường ở mức độ cao hơn loài người, nên cũng yêu cầu những kích thích và trải nghiệm tăng tiến hơn. Vì lý do đó, Eldar dễ bị ảnh hưởng bởi Warp và khiến Slaanesh chú ý, trong hầu hết thời gian, các Eldar chân chính phải kiềm nén tinh thần lực và cảm xúc cá nhân để tự bảo vệ bản thân.
Cơ chế duy trì nòi giống của Eldar cũng không đơn giản, dường như họ sinh sản theo nhiều giai đoạn, chú trọng chất lượng hơn là số lượng, với quá trình mang thai kéo dài, trong thời gian đó các vật liệu di truyền mới có thể được người cha thêm vào phôi đang phát triển. Quá trình này vẫn chưa được hiểu rõ, nhưng các khám nghiệm tử thi Eldar được Imperium thực hiện đã đưa ra phỏng đoán như vậy.
Nhìn chung, người ta biết rằng chu kỳ mang thai của Eldar dài hơn nhiều so với hầu hết các chủng tộc khác, họ cũng yêu nhau một cách cuồng nhiệt, quan hệ tình dục và có con như loài người, nhưng quá trình này rất bài bản và phức tạp, yêu cầu sự tập trung và cống hiến để tạo ra một cá thể mới. Vì vậy hiện tại Eldar có dân số già, tỉ lệ sinh thấp, nên họ buộc phải hạn chế thiệt hại nhân mạng tới mức tối đa.
8- Con đường học thuật và chiến trận
Người Eldar phát triển sự nghiệp và bản thân thông qua các Ai’elethra – tức các Path, hay Đạo, hoặc Con Đường. Các Path này đã từng được giải thích trong tạp chí White Dwarf, rằng nó được các nhà phát triển và tác giả ở Games Workshop sáng tạo dựa trên nguồn cảm hứng chủ yếu từ Võ Sĩ Đạo của Nhật Bản, cũng như văn hóa Ai Cập cổ đại, Celtic và Hy Lạp. Đó là Đạo của những chiến binh và học giả, bao gồm võ thuật, danh dự hay nghệ thuật, khoa học, triết học và thiền định…
Hệ thống các Path cũng là hệ thống tư tưởng định nghĩa xã hội Eldar và nó là di sản được lưu giữ chủ yếu bởi các Asuryani, hay các Craftworld Eldar. Khi trưởng thành, mỗi Eldar chọn một Path cho riêng mình để tự tu luyện bản thân, quá trình học tập nghiêm túc này cũng giúp cá thể Eldar đó tránh xa cám dỗ và khỏi bị Slaanesh dòm ngó. Khi một Path đã được nghiên cứu, thực hành và cuối cùng thành thạo, người Eldar sẽ tiếp tục bắt đầu Path mới, ai đi qua càng nhiều Path, thì càng mạnh mẽ và thông tuệ.
Khi một Eldar trải qua những vai trò khác nhau nhờ các Path mà họ đã tu luyện, thì sẽ khám phá nhiều khía cạnh trong tính cách của chính mình và nâng cao năng lực tâm linh cũng như tuổi thọ. Một Eldar sống từ một nghìn năm trở lên thường sẽ trải qua nhiều Path và đạt được sự hiểu biết rất tinh vi về vũ trụ lẫn thế giới xung quanh, họ có khả năng đạt được địa vị cao, trở thành lãnh đạo quân sự hoặc dân sự.
Tất nhiên, việc tu luyện các Path cũng tiềm ẩn nguy cơ, vì như đã nói từ trước, Eldar có xúc cảm rất mạnh mẽ và khi tiếp thu kiến thức mới, họ cũng phải kiềm chế tham vọng của bản thân, vì sự tò mò cũng nguy hiểm cho tâm trí Eldar. Một số Eldar tập trung và ám ảnh đến mức họ không thể rời khỏi một Path sau khi hoàn thành nó, như vậy là đã tự giới hạn bản thân mình phát triển một cách toàn diện.
Có vô số Path đã được biết đến và cả chưa được khám phá, tuy nhiên người Eldar hiện tại tu luyện theo một số Path chính đã được ghi chép và hướng dẫn rõ ràng, Path of the Seer hoặc Path of the Warrior là những Path nổi tiếng nhất vì nó đào tạo ra các nhà tiên tri, chiến lược gia hoặc chiến binh và tướng lĩnh tài ba nhất cho chủng tộc, nhưng đó cũng chỉ là hai trong số rất nhiều Đạo mà Eldar có thể cống hiến hết mình trong suốt cuộc đời của họ.
Những Path khác liên quan đến các vai trò dân sự và trần tục hơn như kỹ thuật viên, quản trị viên dân sự, nhà chế tạo, quản trị thuộc địa, thương nhân, nhà thám hiểm… cũng rất phổ biến. Bất kể vai trò dân sự của họ là gì, cần ghi nhớ là những Eldar này vẫn có thể tham gia quân đội, dù không phải là Aspect Warrior hay quân nhân chuyên nghiệp, họ vẫn có thể mang danh hiệu Guardian và trở hành những binh sĩ ưu tú, giúp hỗ trợ đồng đội và tối hưu hóa mọi khía cạnh trong một cuộc chiến.
Path of the Warrior là Đạo mà người Eldar tôn trọng trong kỷ nguyên của chiến tranh và loạn lạc, mỗi thành viên đi theo Path này sẽ được gọi là Aspect Warrior, bởi vì họ sẽ chọn một trong các Aspect để đi theo, ví dụ như Dire Avengers, Howling Banshees, Striking Scorpions, Fire Dragons, Swooping Hawks, Dark Reapers, Crimson Hunters, Warp Spiders… Mỗi Aspect được hướng dẫn và lãnh đạo bởi một Phoenix Lord tài ba, chuyên trách một kỹ năng nào đó phục vụ cho chiến trận, từ cận chiến cho đến không kích…
Ví dụ, Dire Avengers tổng hòa các kỹ năng một cách cân bằng, trong khi Howling Banshees tối ưu cận chiến, Striking Scorpions thích hành động lén lút, Dark Reapers chuyên vũ khí tầm xa, Fire Dragons chuyên pháo binh và hỏa lực hạng nặng, Swooping Hawks tối ưu không kích, Shining Spears thích Hit and Run… Nhìn chung, mỗi Aspect có thể tượng trưng và theo đuổi một phong cách nào đó dựa trên sự thông tuệ về chiến trận của Chiến Thần Kaela Mensha Khaine ngày xưa.
Path of the Warrior là một con đường thẳng tắp nhưng cũng khắc nghiệt, vì nó rất cám dỗ bởi sự say máu chiến trận và ham muốn có được quyền lực, sức mạnh cao hơn. Những Eldar mê muội trong Path này quá lâu sẽ trở thành các Exarch (ví dụ như The Visarch) – là những tướng lĩnh tài ba, nhưng họ không thể gạt sang một bên niềm đam mê chém giết, họ sẽ mãi mãi cống hiến cho chiến tranh và cái chết. Đó cũng là cách mà các Exarch hiến dâng toàn bộ sinh mệnh của mình để bảo vệ cho chủng tộc.
Bên cạnh Path of the Warrior là Path of the Seer, còn được gọi là Path of the Witch, con đường dài nhất, nguy hiểm, phức tạp nhất trong tất cả các Đạo của Eldar. Thành viên của Path này là các Seer và nếu mê đắm quá lâu, họ trở thành Farseer (ví dụ như Eldrad Ulthran) – là những Psyker mạnh mẽ và khôn ngoan của chủng tộc. Cuối cùng, nếu vượt qua các giới hạn thể chất và tập trung phát triển tâm trí đến cực hạn, họ có thể hòa làm một với tinh linh vĩ đại của Infinity Circuit – trái tim của Craftworld, từ đó trở thành Crystal Seer danh giá của Eldar.
Các Seer cũng là những người quản lý quá trình tạo ra tinh thể tiếp nhận tinh thần lực được gọi là Waystone, có vai trò quan trọng việc tạo ra Spirit Stone để bảo vệ linh hồn Eldar cũng như tạo ra Wraithlord và Wraithguard. Khi tham gia vào các quá trình này, Seer sẽ được xếp vào các vị trí như Spiritseer và Bonesinger, một lực lượng không thể thiếu để duy trì hoạt động cơ bản và sự tồn vong của Craftworld.
Một số các trường hợp hiếm, khi cá thể Eldar có thể hoàn thành cả hai Path of Seer và Warrior mà không bị mê muội ở một trong hai Path đó, họ có cơ hội trở thành Warlock – người kết hợp khả năng tâm linh của họ với kinh nghiệm quân sự. Họ có thể không đi xa ở một trong hai Path như Farseer hoặc Exarch, nhưng năng lực kết hợp sẽ mang lại giá trị lớn lao cho Craftworld. Warlock có thể tham gia mọi khía cạnh của cuộc chiến, bao gồm cả hoạch định chiến lược, vận hành Wraithlord, Wraithguard và sử dụng Jetbike.
Một trong những Path thú vị khác là Path of the Leader, Đạo riêng biệt này đào tạo ra các nhà lãnh đạo hiếm hoi thậm chí có thể nắm giữ quyền lực cao hơn cả Exarch và Farseer, họ có hiểu biết đặc biệt về nghệ thuật chiến tranh cũng như đã kinh qua nhiều Đạo khác của Eldar để đảm bảo có đủ tư cách làm nhà kỹ trị lẫn lãnh đạo toàn diện, họ có thể là truyền nhân hoặc hậu duệ của chính những gia tộc cổ đại và cao quý nhất giống loài Eldar như Eldanesh, Ulthanash và Bierellian.
Chỉ những Eldar đã đi qua Path of the Leader mới có khả năng đảm nhận vị trí Autarch – một chức danh lãnh đạo tạm thời chỉ xuất khi cần thiết, lúc cộng đồng đối mặt với chiến tranh toàn diện hoặc kẻ thù khủng khiếp. Sự sâu sắc của một Autarch giúp họ có khả năng hoạch định chiến lược vô song, vì họ hiểu biết về từng khía cạnh của học thuyết chiến tranh lẫn chính sách quản trị xã hội dân sự, đến mức mà ngay cả một Exarch hoặc Farseer cũng không thể sánh được.
Con đường của Autarch khó khăn, nguy hiểm và không phải Eldar nào cũng đủ năng lực để đảm nhận nhận nó lâu dài, thông thường đây chỉ là chức danh tạm thời trong giai đoạn chiến tranh dai dẳng, họ sẽ quay trở lại vị trí vốn có của mình khi cuộc chiến đã qua. Một ví dụ về Autarch là Anthrilien Morningchild là Autarch của Craftworld Yme-Loc. Anh ta tuyên bố rằng chỉ những ai đã đi trên Path của Aspect Warrior và đủ tỉnh táo để hoàn thành và bước ra khỏi nó thì mới hiểu được Autarch là gì.
Ngoài ra, Eldar còn có những Đạo phổ biến khác ít nguy hiểm hơn, như Path of the Artisan dành cho nghệ nhân; Path of the Dreamer dành cho người thiền định có thể kiểm soát trải nghiệm trong mơ; Path of Grief là người làm dịch vụ tang lễ và tưởng niệm; Path of the Mariner đào tạo ra những hoa tiêu, thủy thủ và nhà phát kiến; hay Path of Service của người tình nguyện làm việc nhỏ như phục vụ, chăm sóc người khác – đây là nghề nghiệp bị xem nhẹ ở xã hội loài người, nhưng với Eldar nó là công việc đáng trân trọng.
9- Eldar và các Phoenix Lord vĩ đại
Phoenix Lord (Chúa tể Phượng Hoàng) là danh xưng tốn kính dành cho những anh hùng cổ xưa và nổi tiếng nhất của chủng tộc Eldar. Mỗi khi bị đánh bại, linh thể của họ hòa nhập cùng bộ giáp đã mặc cho đến khi nó được kế thừa bởi một chiến binh Eldar khác xứng đáng với nó, và người mới sẽ có linh hồn cộng hưởng với các tiền nhân của mình. Lúc đó một Phoenix Lord cụ thể sẽ được tái sinh với đầy đủ quyền năng và tri thức vốn có, quy trình cứ thế tiếp tục.
Phoenix Lord có thể là những Exarch cổ đại, già cỗi đến mức không có đền thờ và không có Craftworld nào để gọi là nhà, bởi họ đã tồn tại trước cả những thứ đó, trước cả Sự Sụp Đổ của chủng tộc. Họ lang thang từ thế giới này sang thế giới khác, bị chiến tranh thu hút theo bản năng, bị sức mạnh và trực giác đưa đẩy đến những nơi nguy hiểm nhất và nơi mà tộc Eldar cần họ nhất. Trong những khoảnh khắc tuyệt vọng, Phoenix Lord thường xuất hiện để hỗ trợ đồng bào mình.
Thậm chí, có khi nhiều Phoenix Lord cùng giá lâm, tùy thuộc vào những nguy cơ mà tộc Eldar phải đối mặt, kẻ địch càng mạnh thì khả năng càng có nhiều Phoenix Lord xuất hiện để đánh bại. Sử dụng Eldar Webway, họ di chuyển từ Craftworld đến Craftworld và từ hành tinh này sang hành tinh khác, đi theo con đường đã định sẵn của Kaela Mensha Khaine – vị thần của sự giết chóc, bạo lực, hủy diệt và chiến tranh trong tín ngưỡng lâu đời của Eldar.
Về lý thuyết, Phoenix Lord là bất tử, khi một trong số họ bị hạ sát giữa trận chiến, vị trí ấy sẽ được đảm nhận bởi hậu nhân có thực lực nhất – người kế thừa giáp trụ và danh tính của Phoenix Lord đó. Bằng cách này, một chu kỳ mới sẽ lại được bắt đầu. Cơ chế kế thừa vĩnh hằng nói trên nhờ vào viên đá tinh linh chứa linh hồn của tất cả các Eldar đã trở thành Phoenix Lord đó tự cổ chí kim, trí tuệ và kinh nghiệm mà nó nắm giữ là không thể đo đếm được.
Cho dù Phoenix Lord được tái sinh bao nhiêu lần bởi bao nhiêu cá thể khác nhau, anh ta hoặc cô ta vẫn mãi mãi mang một phong cách như vậy, được thúc đẩy và chi phối bởi tâm trí của chiến binh đầu tiên và vĩ đại nhất từng mặc bộ giáp. Sau mỗi lần tái sinh, họ mạnh hơn, khôn ngoan hơn trước nhờ kinh nghiệm và kiến thức uyên bác đã được tích lũy từ đời này sang đời khác. Càng chiến đấu, chết đi và hồi sinh, Phoenix Lord càng mạnh, càn thông tuệ để dẫn dắt đồng đội mình.
Tên tuổi của các Phoenix Lord nổi tiếng khắp các Craftworld và những việc làm của họ là một phần của truyền thuyết về Eldar. Không ai biết chính xác có bao nhiêu Phoenix Lord, một số từng được nhìn thấy mặc dù rất hiếm, trong khi những người khác đã biến mất hàng thiên niên kỷ chỉ để xuất hiện lại một cách đột ngột và bất ngờ. Vài người trong số họ chắc chắn đã bỏ mạng từ lâu, bộ giáp của họ vẫn nằm trên thế giới thù địch nào đó, chờ đợi một Aspect Warrior xứng đáng kế thừa nó.
Vài Phoenix Lord cổ xưa đã xuất hiện trước cả khi tộc Eldar suy tàn. Họ là những anh hùng sống sót qua thảm họa của giống nòi, và là những người đầu tiên mang các viên đá tinh linh của Aspect Warrior. Người ta nói rằng Asurmen là Phoenix Lord đầu tiên và ông ta đã đào tạo ra các Aspect Warrior thế hệ đầu – hay còn gọi là các Asurya, từ đó sáng lập ra Path of the Warrior cao quý, trở thành lý tưởng của các chiến binh đang đấu tranh vì sự tồn vong của giống loài.
Người Eldar tin rằng, tất cả các Phoenix Lord sẽ xuất hiện để lãnh đạo họ chiến đấu chống lại bè lũ Chaos trong trận chiến định mệnh cuối cùng giữa thế giới hỗn mang và vũ trụ vật chất. Lúc đó, dân tộc Eldar vinh quang sẽ lấy lại những gì đã mất, hay ít nhất, họ có một cơ hội để xóa bỏ những tội lỗi xưa cũ, và cứu chuộc linh hồn của chính mình trước sự cám dỗ của Thần Hỗn Mang Slaanesh.
10- Sức mạnh quân sự ưu việt của Eldar
Trong mắt Imperium, Eldar là một loài Xenos nguy hiểm và thậm chí kinh tởm, nhưng họ từng là giống loài văn minh có công nghệ và văn hóa phát triển tột bật nằm ngoài khả năng hiểu biết của con người, hoàn toàn ngang cơ với Necron. Họ không sở hữu năng lực thao túng các phân tử trong thế giới vật chất đến mức kiềm hãm được cả C’tan Shard như Necron, nhưng ít nhất cũng đã đạt tới mức độ một 9 một 10. Ví dụ điển hình nhất là công nghệ Shuriken.
Shuriken rất độc đáo, công nghệ này cực kỳ tiên tiến và rất khó sao chép, có kích thước đa dạng từ vũ khí cá nhân, cầm tay, cho đến những khẩu pháo khổng lồ gắn trên phương tiện cơ giới và tất cả đều hoạt động theo cùng một nguyên tắc ứng dụng các máy gia tốc trọng lực và từ trường, bắn một lát mỏng các phân tử ra khỏi nòng súng với vận tốc cực lớn để cắt xuyên mọi thứ, kể cả những loại giáp tốt nhất mà Imperium có thể có được, ví dụ như Plasteel được sử dụng cho Terminator cũng sẽ bị xuyên thấu.
Hãy tưởng tượng vũ khí Shuriken có thể được bắn ra theo một loạt hàng trăm phát trong một hoặc hai giây, và mỗi lõi hoặc băng đạn của các khẩu súng Shuriken Pistol hay Shuriken Catapult có thể đủ để bắn mười loạt hoặc hơn trước khi cần thay thế. Đó là một hỏa lực áp đảo và chết người. Giống như hầu hết các công nghệ của Eldar, vũ khí Shuriken được kích hoạt bằng nhận diện tâm linh, liên kết với chính tâm trí người sử dụng và các giống loài khác dù có cướp được cũng không thể dùng được.
Nhược điểm trong cơ chế và phương pháp hoạt động của công nghệ vũ khí Shuriken là nòng súng không có khương tuyến như các loại vũ khí ứng dụng nguyên lý đạn đạo và thuật phóng phổ biến của Nhân loại như Bolter, nên mặc dù hỏa lực có mạnh hơn, nó lại thiếu tầm bắn và sự chính xác ở khoảng cách xa, nhưng tốc độ, thể chất và giác quan ưu việt của Eldar hoàn toàn có thể bù lại cho điểm trừ này. Nói chung, Shuriken là hệ thống vũ khí mà Imperium thường đối mặt nếu phải giao chiến với Eldar.
Ngoài Shuriken, Eldar sở hữu mọi công nghệ, hình thái vũ khí và thiết bị quân sự phổ biển khác mà Imperium có thể có được, nhưng ở mức độ hoàn thiện và hiệu suất chỉ có cao hơn chứ không thua kém, bao gồm Power Weapon và Chain Weapons, Force Weapons như các dòng Chainswords, Ghostglaive, Singing Spear hay Witch Staff. Đó cũng chỉ là những vũ khí thông thường, Eldar còn thao túng được các loại năng lượng khác từ Warp Storm, hoặc Lỗ Đen và Dark Matter (Vật Chất Tối).
Ví dụ như Dark Eldar ưa thích dùng Dark Matter Weapon, vì sao họ làm được thế là vượt quá sự hiểu biết hiện tại của Imperium, chỉ biết là nó ứng dụng sức mạnh dường như thao túng được Lỗ Đen trong một thứ vũ khí cầm tay, mà sẽ khiến kẻ thù hoàn toàn bốc hơi. Những lĩnh vực khác mà Eldar từng khai thác cũng bao gồm công nghệ Phản trọng lực (Anti-Grav), công nghệ Nano, chế tác các thiết bị ứng dụng tinh thần lực (Psychic-Artefact) và cả Prism Weapon – thứ vũ khí laser có khả năng hủy diệt lớn hơn nhiều so với các dòng Lasgun hoặc Lascanon của Imperium.
Công nghệ vũ khí laser là không lạ đối với nhân loại, nhưng Prism Weapon của Eldar hiện đại tới mức độc đáo và linh hoạt tuyệt vời mà cho đến nay Imperium muốn sao chép nhưng không đủ năng lực, các Tech-priest của nhân loại chỉ mới hiểu biết cơ bản về hoạt động của nó mà thôi. Theo đó, Prism Weapon áp dụng quá trình bắn hai giai đoạn, bắt đầu với một tia laser cường độ trung bình từ buồng điện tích chính được đưa qua buồng gia tốc, rồi vào một lăng kính tinh thể lớn.
Lăng kính này sẽ giữ lại và tăng cường độ phát bắn của Prims Weapon chỉ trong vòng một phần nghìn giây. Năng lượng của phát bắn sau đó lại được tập trung thông qua một thấu kính lăng trụ thứ cấp, với các động cơ điều chỉnh giúp tạo ra chùm tia năng lượng có độ tập trung còn cao hơn nữa, đủ khả năng xuyên thấu qua lớp giáp dày nhất hoặc tạo ra một chùm tia phân tán để tiêu diệt hoàn toàn bộ binh của đối phương trên diện rộng.
Cần lưu ý là kể cả phe Exodite vốn được xem là lạc hậu nhất trong các Faction của Eldar cũng sở hữu Prism Weapon loại lớn và gắn lên những con khủng long làm thú cưỡi của họ, nói như vậy để hình dung được công nghệ quân sự của Eldar là rất mạnh mẽ. Kết hợp với năng lực thể chất và tâm linh vốn có của họ, thì quân đội chính quy Imperial Guard của Imperium thực sự không có cơ hội để trực diện đối địch, mà phải cố gắng áp đảo bằng số lượng lớn hơn, hoặc cần sự trợ giúp từ Space Marine.
Trên quỹ đạo, các Hạm đội Không gian Eldar là một lực lượng tàu vũ trụ tiên tiến, nhẹ hơn và nhanh hơn các tàu khác cùng chủng loại và phân khúc của Imperium, họ cũng tinh tế hơn rất nhiều, một phần dựa vào công nghệ Solar Sail để tạo lực đẩy và sử dụng tốc độ vượt trội để tránh hỏa lực của đối phương thay vì sử dụng giáp nặng để che chắn và hấp thụ. Tức là giáp của tàu Eldar có thể không quá dày, nhưng có bắn trúng được họ không mới là vấn đề, vì chúng nhanh hơn hầu hết tàu của Imperium.
Đỉnh cao của hạm đội Eldar là các Void Stalker – một trong những mẫu tàu vũ trụ đại diện cho đỉnh cao của công nghệ Eldar. Đừng bao giờ hoài nghi về sức mạnh của các chiến hạm cỡ lớn như Void Stalker, vì chúng đã từng giao chiến với các Tomb Ship của Necron, có thể sở hữu Heavy Starcannon bắn ra tia Plasma với nhiệt độ ngang các vì sao mà vẫn không bị quá nhiệt và luôn an toàn cho người sử dụng, trong khi vũ khí tương tự của Imperium có thể phát nổ và khiến người dùng thiệt mạng.
Tàu chiến của Eldar cũng sở hữu Pulsar Lance và đây là một trong số các vũ khí nguy hiểm nhất trong không gian nhờ tốc độ, tầm bắn và độ chính xác cực cao trong khi tàu của Imperium cũng có thể sở hữu thứ vũ khí tương tự nhưng chỉ bắn được từng phát một với hiệu suất thấp hơn. Dark Eldar sở hữu các Lance Weapon của riêng họ, ví dụ Dark Lance, bắn ra thứ năng lượng Darklight có phản ứng rất dữ dội khi chạm vào mục tiêu và phân rã toàn bộ đối phương.
Tuy nhiên, dòng vũ khí thú vị đáng lưu ý của Eldar là Distortion Cannon, thứ có thể khiến một khu vực của vũ trụ vật chất tự sụp đổ trong giây lát, về cơ bản tạo ra một lỗ sâu thu nhỏ và thao túng các lực hấp dẫn phức tạp của vũ trụ, đơn thuần xé nát mục tiêu thành từng mảnh, đảm bảo cái chết gần như chắc chắn cho các sinh vật sống hoặc hoàn toàn hủy diệt các phương tiện của đối phương. Nếu không bị cắt nát, mục tiêu cũng bị hút hoàn toàn vào không gian vô định.
Distortion Weapon của Eldar có thể xem là thứ nhạo báng cả quy luật vũ trụ và khẳng định rằng đỉnh cao công nghệ của họ đã đi trước nhân loại rất xa. Adeptus Mechanicus của Imperium đã nỗ lực nghiên cứu và tái tạo công nghệ này nhưng kế hoạch của họ kết thúc trong thất bại khủng khiếp, thậm chí vô tình mở cổng Warp cho quỷ tràn vào khiến lực lượng Grey Knight phải ra tay dẹp loạn. Ngày nay Inquisition quản lý chặt chẽ để tránh việc các Tech-Priest vì quá đam mê mà lén lút nghiên cứu công nghệ Eldar.
Distortion Cannon có thể được gắn trên các Phantom Titan, là biến thể lớn nhất trong số các Titan của Eldar và là đỉnh cao của công nghệ Warpcraft mà Eldar sở hữu, mỗi Titan được chế tạo xung quanh lõi Wraithbone – thứ vật liệu tâm linh cho phép linh hồn của một Eldar đã chết được chứa trong Spirit Stones rồi di chuyển tự do khắp cỗ máy, hợp nhất với một hoặc ba người điều khiển khác, giúp Phantom Titan tuy có kích cỡ khổng lồ nhưng vẫn nhanh và linh hoạt như một Aspect Warrior bình thường.
Distortion Cannon của Phantom Titan đủ mạnh để vô hiệu Void Shield mà các Titan của Imperium sở hữu, quyển sách Imperial Armour Volume Eleven – The Doom of Mymeara đã nhắc tới chi tiết này. Ngoài ra, Eldar cũng ứng dụng Holo-field, là công nghệ trường ảnh ba chiều có thể tái lập trình, được Eldar sử dụng để tự vệ khỏi các cuộc tấn công của kẻ thù. Thay vì dùng một trường lực thông thường để ngăn chặn trực tiếp đòn đánh, Holo-field làm biến dạng hình ảnh và vị trí của người dùng, ngăn họ khỏi bị đánh trúng ngay từ đầu, cũng như đánh lừa thị giác đôi phương bằng ảo ảnh.
Cuối cùng, công nghệ quan trọng nhất của Eldar chính là Wraithbone. Nếu Necron có công nghệ độc quyền Necrodermis chiếm ưu thế tối thượng ở vũ trụ vật chất, thì với Eldar, đó chính là Wraithbone, tinh hoa của việc thao túng năng lượng tâm linh. Nó là một vật liệu dẻo và bền bỉ, được hiện thực hoá bằng cách làm ngưng kết năng lượng tâm linh từ không gian Warp. Cho đến nay chỉ có giống loài Eldar làm được việc này, họ sử dụng Wraithbone cho nhiều tác vụ khác nhau, bao gồm xây dựng các tòa nhà, tàu và vũ khí từ nhỏ đến lớn.
Wraithbone trông mềm mại nhưng cứng hơn bất kỳ loại Plasteel nào của Imperium và khó bị hư hại hơn cả Adamantium, đồng thời nó sẽ tự phục hồi một cách tự nhiên, và quá trình sửa chữa này có thể được đẩy nhanh nhờ sức mạnh tinh thần của một Bonesinger. Do được tạo ra từ Warp, vật liệu Wraithbone có tiềm ẩn năng lực truyền dẫn sức mạnh tâm linh, cho phép nó được sử dụng như một đường dẫn tinh thần lực, tương tự như kim loại dẫn điện vậy, nhờ vậy mà các giáp trụ từ Wraithbone có thể cùng lúc bảo vệ cả thể chất và tâm trí người mặc.
Wraithbone có thể chế tác thành mọi thứ, và thực hiện hiệu quả tất cả các nhiệm vụ mà các công cụ máy móc có thể làm được. Ví dụ như với các tàu vụ trụ của Eldar, bộ khung cơ bản được tạo ra từ Wraithbone và sau đó các khu vực bên trong mới được hoàn thiện. Ngay cả những Craftworld hùng mạnh cũng được làm từ vật liệu Wraithbone, và đó cũng là cách những cư dân của Craftworld được bảo vệ và sống sót trước sự thức tỉnh của Slaanesh, vì lá chắn tinh thần lực từ Wraithbone đã một phần giúp che chở họ khỏi tiếng thét tâm linh mạnh mẽ của vị thần Hỗn Mang sa đọa này.
Có thể nói Wraithbone là vật liệu siêu việt sánh ngang với Necrodermis, và Nhân loại hiện nay chưa có bất kỳ vật liệu nào đủ tân tiến để đối chọi với đỉnh cao công nghệ của hai đối thủ Eldar và Necron. Những nội dung được chia sẻ ở đây chỉ là một phần nhỏ để đưa ra ví dụ cơ bản nhất về Wraithbone và một số ứng dụng công nghệ độc đáo lẫn bệnh hoạn của các phe phái Eldar, đến mức Nhân loại khó mà hình dung được và sẽ vô cùng sợ hãi khi phải đối mặt.
Đơn cử có thể nhắc tới Soul-Seeker Ammunition của Dark Eldar, loại đạn được tẩm thứ Wraithbone kết hợp với một linh hồn đã bị tra tấn, tha hóa đến mức phát điên và đầy thù hận. Khi được bắn ra, linh hồn trong viên đạn tìm cách trả thù sinh vật sống – mục tiêu mà mà nó đang được nhắm bắn tới với một sự căm hận khủng khiếp. Thậm chí linh hồn này có thể khiến viên đạn đi theo vòng cung, tự né tránh chướng ngại để tấn công chính xác kẻ thù.
Vì Dark Eldar thích tra tấn và gieo rắc sự đau khổ, vũ khí của họ đôi khi không dùng để giết kẻ thù ngay lập tức, mà sẽ đánh gục ý chí và khiến đối phương tuyệt vọng. Ví dụ như các loại lựu đạn Terrorfex và Horrorfex cũng kết hợp công nghệ Wraithbone và Soul-Seeker, khi nó nổ tung sẽ không chỉ gây thương tổn về mặt vật lý, mà còn tạo ra một cảm giác sợ hãi và tuyệt vọng bao trùm để vô hiệu hóa kẻ địch, làm tê liệt họ với sự kinh hoàng và buồn thảm.
Phe Harlequin cũng sở hữu một số trang bị đặc biệt, trong đó có Agaith – những chiếc mặt nạ đi kèm với nhiều chức năng tự động, cảm ứng, bảo vệ, có trường hợp chúng được trang bị bộ phát hình ảnh lập thể cho phép tạo nên nhiều khuôn mặt khác nhau, đồng thời ghi và phát lại bất cứ thứ gì mà Harlequin đó đã thấy, thường được sử dụng để tái hiện những khoảnh khắc đau đớn của kẻ thù, gieo rắc vào tâm trí đồng đội của chúng và đánh gục ý chí chiến đấu. Những thiết bị áp chế tinh thần này được gọi là Marathag (tức “Khuôn mặt của cái chết”).
Harlequin rất duyên dáng và nhẹ nhàng vì họ là những nghệ sĩ hoặc vũ công tài ba, nên họ sử dụng kiếm thuật và các loại vũ khí phổ biến của chủng tộc còn linh hoạt hơn so với các Eldar thông thường. Họ tăng cường sức mạnh và tốc độ bằng thiết bị “Flip-belt” tạo ra một trường phản trọng lực nhỏ xung quanh và cho phép nhảy cao một cách bất thường để tấn công hoặc ám sát kẻ thù ở các góc độ không lường được. Kỹ thuật chiến đấu của họ trông như một vũ đạo chết chóc.
Harlequin cũng mặc những bộ đồ Holo-suit được thiết kế phức tạp, vừa là áo giáp vừa hỗ trợ cho việc biểu diễn trên sân khấu. Khi chiến đấu, Harlequin di chuyển tạo nên những tàn ảnh, chúng vỡ tan thành một đám mây các mảnh pha lê nhảy múa và xoáy tít để đánh lừa kẻ thù. Mỗi Harlequin đều có thể là một sát thủ lành nghề, với năng lực đơn đả độc đấu khó ai bì kịp.
Harlequin nổi tiếng với những vũ khí chiến đấu kỳ lạ và chết người. Kinh dị nhất trong số này là Harlequin’s Kiss thường được các Solitaire sử dụng, giống như một cái ống được mài nhọn, cố định vào cánh tay của người dùng, chứa đầy dây cước bén ngót. Khi nó đâm vào người nạn nhân, các sợi dây cước sẽ bung lên và túa ra xung quanh, xẻ thịt nạn nhân ngay từ bên trong.
Cuối cùng, cần nói đến Ynnari, nhóm các Eldar dưới trướng Yvraine, tông đồ tôn thờ Thần Chết Ynnead, họ là một thế lực mới nổi gần đây và có thể mang theo Spirit Stone chứa đựng linh hồn của các Eldar đã khuất, giúp củng cố sức mạnh tâm linh của chính mình, họ cũng có thể hút năng lượng của những người vừa mới chết để tiếp thêm sinh lực cho bản thân trong chiến trận.
Đối với những Ynnari nào thực sự cống hiến hết mình để tôn thờ Ynnead, thậm chí có thể giao tiếp với linh hồn của đồng đội đã khuất để sử dụng các kỹ năng, trí tuệ và kinh nghiệm của họ để hỗ trợ, tạo ra sức mạnh to lớn nhằm chiếm ưu thế trước kẻ thù. Đôi khi các Ynnari cũng nhờ vả linh hồn người chết, những tiếng rít và thì thầm của họ khiến kẻ thù gần đó mất bình tĩnh và kém tập trung.
Tóm lại, khi đánh giá sức mạnh quân sự của Eldar, thì cần phải xem xét sự tổng hòa của các khía cạnh khoa học công nghệ và tinh thần lực, khiến họ trở thành một giống loài phong phú và đáng nghiên cứu. Càng tìm hiểu về Eldar, sẽ thấy rằng họ thú vị mà cũng đáng sợ, họ giàu truyền thống và văn hóa, nhưng cũng có thể rất kinh tởm và trở thành kẻ thù khủng khiếp của nhân loại. Vì bài viết/video này không thể nào truyền tải hết mọi nội dung về Eldar, nên xin mời các bạn đóng góp thêm những câu chuyện thú vị về chủng tộc này dưới phần bình luận nhé.